Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 15/07/2014 19:24 (GMT+7)

Giáo sư, Viện sĩ Phạm Song – Người không lùi bước trước thời gian

Giáo sư, Viện sĩ Phạm Song sinh năm 1931
tại huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.

Năm 1956 tốt nghiệp chuyên ngành tim mạch

tại Đại học Y Hà Nội.
Năm 1982 giữ chức Giám đốc Bệnh viện

Hữu nghị Việt - Xô.

1988 - 1992, giữ chức Bộ trưởng Bộ Y tế.

Nay là Chủ tịch Tổng hội Y học Việt Nam,

Chủ tịch Hội Truyền nhiễm Việt Nam.
Ông là tác giả, chủ biên nhiều cuốn sách y học

nổi tiếng như: Bách khoa thư bệnh học (4 tập, 2008), HIV/AIDS: Tổng hợp, cập nhật và

hiện đại (Sách được giải vàng – Giải thưởng

sách hay Việt Nam 2010)…

Năm 2000 được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh

về lĩnh vực khoa học - công nghệ.
Năm 2000 được bầu là Viện sĩ Viện hàm lâm

Y học Liên bang Nga.

Năm 2006 được Viện Tiểu sử Hoa Kỳ tặng

danh hiệu "Nhà khoa học tiêu biểu của năm"

do có cống hiến trọn đời cho y học.

Mặc dù hoạt động trong ngànhtruyền nhiễm đầy khô khan và khó nhọc nhưng GS.VS Phạm Song lại là một con người giàu cảm xúc, yêu văn chương, nghệ thuật. Có lẽ vì thế mà trong câu chuyện với chúng tôi, ông thườngnhắc đến tên tuổi của các tác gia văn học nổi tiếng mà ông yêu thích như H. Balzak, S. Dicken, L. Tolstoi, V. Hugo… Ông bảo những tác phẩm này có ảnh hưởng rất lớn đến nhân sinh quan của người làmnghề y. Trong số các tác giả văn học lớn ông đặc biệt say mê A. Shekhov và Lỗ Tấn, những nhà văn xuất thân vốn là người thầy thuốc giỏi. Và chính họ đã cho ông hiểu sâu hơn và tâmhuyết hơn với nghề y ngay từ khi đang còn là một chàng sinh viên y khoa. 
Con đường đến với chuyên ngành truyền nhiễm của ông cũng rất ngẫu nhiên. Còn nhớ, vào năm 1958, lúc đó ông đang là bác sĩ chuyên khoa tim mạch thì được Bộ trưởng Bộ Y tế lúc bấy giờ là bácsĩ Phạm Ngọc Thạch (1909 - 1968) cử đi học về ngành virut và vi khuẩn học. Nhận nhiệm vụ, ông bắt đầu lên đường theo đuổi một ngành khoa học mới. Ông đã sang Rumani học ngành virut họctại Viện Quốc gia virut học, đến Hà Lan tu nghiệp về ngành nhiễm trùng gan, rồi tới Thụy Sĩ học ngành miễn dịch học... Sau khi hoàn thành xuất sắc các khóa học trở vềnước, ông được cử làm chủ nhiệm Khoa bệnh nhiễm trùng của Bệnh viện Hữu nghị Việt - Xô trong 18 năm liền (1966 - 1984).

Những công trình nghiên cứu của GS.VS Phạm Song. ảnh: Trần Thanh Giang

GS.VS Phạm Song (thứ nhất, hàng đầu từ trái sang) trong đoàn Hội Y học Đông Nam Á tại lễ kỉ niệm 102 năm Hội Y học Philippine. ảnh: Tư liệu.

GS.VS Phạm Song (thứ tư, hàng đầu từ trái sang) tại Hội nghị Y học Đông Nam Á ở Malaysia (12/2006). ảnh: Tư liệu.

GS.VS Phạm Song hướng dẫn các cán bộ trẻ tại phòng xét nghiệm sinh học phân tử Bệnh viện bệnh nhiệt đới Trung ương. ảnh: Trần Thanh Giang

GS.VS Phạm Song làm việc với tổ biên soạn từ điển Bách khoa y học Việt Nam chuyên ngành truyền nhiễm. ảnh: Trần Thanh Giang

Theo ông, khoa học trong ngành y tế không chỉ xây dựng trên lí thuyết mà đòi hỏi phải có thực tiễn bệnh học. Có lẽ vì thế mà ông đã tập trung triển khai thành công nhiều đề tài khoa học có tính ứng dụng cao. Điển hình là vào những năm 80 của thế kỉ XX, trước tình hình Việt Nam và nhiều nước trên thế giới có nhiều người bị nhiễm bệnh sốt rét Plasmodium falciparum kháng thuốc, ông đã cùng với các đồng nghiệp nghiên cứu việc đưa cây thanh hao hoa vàng vào chiết xuất ra Artesiminin và các dẫn xuất có tác dụng ngăn ngừa sốt rét. Năm 1988 ông đã sản xuất thử nghiệm thành công 37kg Artesiminin. Hai năm sau, chương trình này đã được ủng hộ đưa ra sản xuất đại trà và thu được 3 tấn Artesiminin. 
Sau khi tiến hành kiểm nghiệm thực tế thành công ở nhiều tỉnh thành, năm 1990, chất Artesiminin đã được Bộ Y tế cho phép sử dụng đại trà trong việc điều trị sốt rét. Và 9 năm sau, Tổ chức Y tế thế giới cũng đã công nhận và chọn Artesiminin là thuốc hàng đầu để điều trị sốt rét do Plasmodium falciparum. Thành công ấy đã được ghi nhận trong cuốn "Khoa học công nghệ mới và phát triển con người trên thế giới" (sách do Chương trình phát triển của Liên hiệp quốc xuất bản năm 2001) như sau: "Việt Nam biết kết hợp kinh nghiệm truyền thống và hiện đại góp phần quan trọng giảm hẳn tỉ lệ tử vong sốt rét ác tính". Hiện nay, Việt Nam vẫn đang là nước xuất khẩu Artemisinin sang các nước châu Phi và châu Âu. 
GS.VS Phạm Song còn là người có tầm nhìn và khả năng dự báo đặc biệt. Ông từng nhận định rằng Việt Nam là nước có khí hậu nóng, ẩm, nhiệt đới gió mùa nên các loại bệnh truyền nhiễm nhiệt đới sẽ có nguy cơ phát triển mạnh. Vì vậy, ông đã xin ý kiến thành lập Viện Y học lâm sàng các bệnh nhiệt đới và trở thành vị Viện trưởng đầu tiên của Viện. Sự ra đời của Viện này đã góp phần rất quan trọng vào việc phòng chống nhiều loại bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Đặc biệt, năm 2003, khi cả thế giới điêu đứng trước đại dịch viêm đường hô hấp cấp (SARS) thì tại Việt Nam, các nhà khoa học trong lĩnh vực truyền nhiễm đã tìm ra được cách đối phó với đại dịch này và trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới khống chế thành công đại dịch SARS.
Không những thành lập nên Viện Y học lâm sàng các bệnh nhiệt đới,  GS.VS Phạm song còn là người đề nghị thành lập nên Ủy ban Quốc gia phòng chống HIV/AIDS ngay từ khi Việt Nam chưa có ca lây nhiễm HIV nào. Tiếp theo đó, ông còn đóng góp công sức vận động thành lập nên nhiều đơn vị y tế quan trọng khác như Viện Tim mạch, Viện Tâm thần học, Khoa Phục hồi chức năng (Bệnh viện Bạch Mai)… góp phần vào việc xây dựng nên những thành tựu chung cho nền y tế Việt Nam.
Nay tuy đã vượt qua tuổi 80 nhưng GS.VS Phạm Song vẫn say sưa ấp ủ với nhiều dự định nghiên cứu mới bằng việc cho ra đời nhiều công trình khoa học về nhiều lĩnh vực như phòng chống HIV/AIDS, Y tế cộng đồng, Dân số kế hoạch hóa gia đình, Sức khỏe sinh sản… Thật hiếm có ai ở tuổi như ông vẫn ngày ngày miệt mài gõ máy tính, sử dụng innternet, đọc sách báo, tra cứu tài liệu hàng giờ đồng hồ để viết sách. 
Hôm chúng tôi đến thăm thấy ông đang loay hoay với một tập sách dày cộp, hỏi ra mới biết đó là tập bản thảo cuốn “Từ điển Bách khoa Y học” do ông làm chủ biên cùng tập thể hàng trăm nhà khoa học khác sắp được ra mắt bạn đọc. Thế mới biết sức làm việc và niềm say mê nghiên cứu khoa học của ông thật phi thường như vượt qua cả sự thử thách của thời gian và tuổi tác vì một nền y học tiến bộ của nước nhà./.

Xem Thêm

Tôn vinh và tri ân một nghề cao quý nhất
Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 hằng năm là dịp để toàn xã hội tôn vinh và tri ân những người thầy, người cô đã tận tụy cống hiến cho sự nghiệp trồng người. Đây không chỉ là ngày lễ ý nghĩa trong ngành giáo dục mà còn mang tính nhân văn sâu sắc, gắn kết tinh thần “tôn sư trọng đạo” - truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
GS.TSKH Nguyễn Đức Cương: Khoa học phải luôn mở rộng hợp tác và học hỏi
GS.TSKH Nguyễn Đức Cương, một trong những nhà khoa học hàng đầu về hàng không - vũ trụ của Việt Nam, đã có hơn nửa thế kỷ cống hiến cho ngành khoa học kỹ thuật hàng không vũ trụ. Không chỉ là người đặt nền móng cho các sản phẩm bay tiết kiệm chi phí cho Việt Nam, ông còn là người thầy tâm huyết, truyền cảm hứng và kiến thức cho nhiều thế hệ trẻ…
An Giang: Người thắp lửa sáng tạo cho học sinh tiểu học
Đam mê đặc biệt với khoa học và sáng tạo, thầy giáo Nguyễn Văn Trung đã không ngừng nỗ lực truyền cảm hứng cho học sinh tiểu học, đồng thời hướng dẫn các em đạt được những thành tích ấn tượng ở cả cấp tỉnh lẫn cấp quốc gia.
Phú Yên: Những nữ trí thức góp phần cải thiện đời sống người dân
Trong thời kỳ hội nhập, sự phát triển của khoa học và công nghệ đóng vai trò là nền tảng thúc đẩy các ngành kinh tế - xã hội khác phát triển. Đặc biệt, trong lĩnh vực khoa học và công nghệ (KH&CN) nữ trí thức không chỉ thể hiện khả năng sáng tạo, nghiên cứu mà còn góp phần tạo ra những ứng dụng thực tiễn giúp cải thiện đời sống người dân và phát triển kinh tế.
Tấm gương sáng trong nghiên cứu và bảo tồn di sản lịch sử
Ông sinh năm1948 tại Phường Hồng Hà, thị Yên Bái, là nhà khoa học tâm huyết, là tấm gương sáng về lòng kiên trì, sự đam mê nhiên cứu và cống hiến hết mình cho sử học của tỉnh Yên Bái. Những đóng góp của Nguyễn Văn Quang đối với ngành sử học đã để lại những dấu ấn sâu sắc và có ý nghĩa to lớn trong việc bảo tồn di sản lịch sử địa phương nơi có nhiều di tích lịch sử và văn hóa dân tộc vùng cao.
Trí thức tiêu biểu Nguyễn Tiến Quyết - Người chinh phục khoa học để lấy mạng sống cho con người!
Nhắc đến ông là nhắc đến chân dung của một người thầy thuốc tâm huyết, nhà khoa học nhiệt thành và một nhà giáo với tình yêu nghề đậm sâu. Có thể nói, xuyên suốt chặng đường cống hiến không ngừng nghỉ đã qua, bằng tâm sức, niềm đam mê khoa học bất tận, ông đã có những cống hiến đáng tự hào cho nền y tế nước nhà.

Tin mới

Quảng Ngãi: Tuyên truyền chủ trương của Đảng cho trí thức
Chiều ngày 19/11, Liên hiệp Hội tỉnh đã phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tổ chức hội nghị thông tin, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề: “Tình hình xung đột Israel-Hamas, Hezbollah; xung đột Nga-Ukraine. Tác động và xử lý của Việt Nam”.
Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp giảm thiểu tác động của đốt mở tại Việt Nam
Mặc dù 68% số người được khảo sát có ý thức về môi trường, 80% có ý thức về sức khỏe, nhưng vẫn thể hiện sẽ tiếp tục “đốt đồng” (đốt lộ thiên/đốt mở trong nông nghiệp), với lý do chủ yếu “vì tin có tác dụng tốt, nhanh, rẻ”. Do vậy, cần có giải pháp truyền thông phù hợp để thay đổi thói quen này.
Phát huy vai trò, trách nhiệm của trí thức KH&CN & LHHVN trong hoạt động của MTTQVN các cấp
Nhằm thảo luận, đề xuất các giải pháp đẩy mạnh và phát huy sức mạnh trí tuệ của đội ngũ trí thức trong hệ thống LHHVN tham gia vào các hoạt động của MTTQVN, nhất là trong hoạt động TV,PB&GĐXH, LHHVN tổ chức Hội thảo Giải pháp phát huy vai trò, trách nhiệm của trí thức trong hoạt động của MTTQVN các cấp. Hội thảo được tổ chức vào chiều ngày 19/11, tại trụ sở LHHVN.
Tôn vinh và tri ân một nghề cao quý nhất
Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 hằng năm là dịp để toàn xã hội tôn vinh và tri ân những người thầy, người cô đã tận tụy cống hiến cho sự nghiệp trồng người. Đây không chỉ là ngày lễ ý nghĩa trong ngành giáo dục mà còn mang tính nhân văn sâu sắc, gắn kết tinh thần “tôn sư trọng đạo” - truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Mạng lưới cơ sở giáo dục đại học phải đáp ứng nhu cầu nhân lực chất lượng cao
Việc quy hoạch lại hệ thống cơ sở giáo dục đại học và sư phạm giúp các cơ sở này nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu và khả năng thích ứng với những thay đổi của xã hội và nền kinh tế, cần tính toán nhu cầu đặc biệt quan trọng của đất nước về nguồn nhân lực chất lượng cao như kỹ sư bán dẫn, kỹ sư vận hành đường sắt tốc độ cao…