Hồ Chí Minh với Phật giáo
1. Thực hành giáo pháp Phật
Hồ Chí Minh tôn trọng mọi tôn giáo, tín ngưỡng, không xúc phạm niềm tin, kể cả phong tục tập quán của mỗi dân tộc, Người còn đóng góp tích cực, thiết thực việc xây chùa, hành pháp Phật.
Năm 1927, Nguyễn Ái Quốc sống và hoạt động ở Uđonthani (Thái Lan), sư cụ Thượng toạ chùa Oắtphô cho biết: “Hồi ấy, chùa xây điện thờ chính… việc chỉ đạo xây điện do ông Nguyễn đảm nhiệm, ông Nguyễn kêu gọi bà con Việt kiều góp của, góp công, mua sắm nguyên vật liệu cho chùa rất nhiều…”(2). Ở Thái Lan đâu đâu cũng có chùa, dân thường đi lễ chùa, Người cũng đi mua hoa đi lễ chùa.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể lại: “Đầu tháng 12 (năm 1940)… Ngày tết đến với chúng tôi tại biên giới… Gần làng có miếu thờ thành hoàng, nhân dân ai cũng đến lễ bái. Bác cũng đi cùng bà con đến viếng đền”(3).
Đồng chí Vũ Anh, cởi mở tấm lòng: “Tháng 1-1941, Bác, anh Kiên và tôi về địa điểm Pác Bó… ngày Tết quần chúng trong làng lên chúc tết đủ mặt. Bác vẽ một ảnh Phật treo trên vách đá cho quần chúng có chỗ lễ…”(4).
Hồi ký của chiến sĩ cận vệ Dương Đại Lâm cho biết: Đầu năm 1942, hồi đó Người đã dời lán cũ lên lán trên ở sâu trong rừng… Ở một gốc cây to gần lán có đặt một phiến đá dán giấy đỏ viết chữ nho, lại có bát hương lên khói y hệt một cái miếu thờ thổ thần. Bên trong lán, có tranh Phật Bà Quan Âm và câu đối đỏ dán ở vách…”(5).
Ngay sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, Hồ Chí Minh đến chùa Bà Đá (Hà Nội) dự lễ cầu siêu cho linh hồn đồng bào, chiến sỹ hy sinh vì Tổ quốc.
Lần thứ hai, ngày 5-1-1946, tại chùa Bà Đá, Hồ Chí Minh thành tâm đọc lời xin thề: “…Trước Phật đài tôn nghiêm, trước quốc dân đồng bào có mặt tại đây, tôi xin thề hy sinh đem thân phấn đấu để giữ vững nền độc lập cho Tổ quốc. Hy sinh, nếu cần đến hy sinh cả tính mạng, tôi cũng không từ”(6).
Tết năm 1946, các thế lực thù địch luôn tìm cách lật đổ nhà nước non trẻ, Tưởng Giới Thạch chủ trương “diệt cộng cầm Hồ”. Vậy mà, đêm giao thừa, Hồ Chí Minh cải trang đến đền Ngọc Sơn, nơi linh thiêng nhất của Hà Nội cùng nhân dân đón nhận và kính cáo giây phút chuyển giao thời thế, bắt đầu khi mở vận hội mới.
Lần thứ 2, Hồ Chí Minh đến đền Ngọc Sơn, cụ Nguyễn Xuân Tửu, sĩ quan quân đội, lão thành cách mạng từng bảo vệ Hội nghị Tân Trào, sung sướng trải bày: “Trước ngày toàn quốc kháng chiến (19-12-1946)… Tôi lại có vinh dự được cùng các ông Khuất Duy Tiến, Phan Trọng Tuệ tháp tùng và bảo vệ Bác Hồ đến thăm đền Ngọc Sơn. Sau khi thành kính thắp hương,… thấy ba cuốn kinh trên bàn, Bác Hồ đã giở ra xem rồi gấp lại đưa cả cho tôi và bảo: “Chú giữ lấy, khi gặp nạn có thể cứu thân”. Đến nay, sau mấy chục năm kháng chiến…, tôi vẫn còn thuộc bài kinh Tâm pháp và kinh Sám hối…”(7).
Ngày 18-12-1946, tại hang núi chùa Trầm (Hà Tây), Hồ Chí Minh đọc và phát lệnh Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống Pháp. Ngày 13-7-1966, đồng chí Vũ Kỳ, thư ký riêng của Người cho biết: “Hôm đó, Bác đi một mình không cho ai đi theo, Bác đến chùa Trầm…”. Đồng chí sĩ quan cao cấp thuộc đơn vị đóng ở chùa Trầm không quên ngày đó: “Hôm ấy, Bác ở lại và làm việc suốt một ngày ở trong chùa Trầm, Bác bảo chúng tôi, các chú cứ làm việc của các chú, Bác làm việc của Bác… Sau này chúng tôi mới biết là hôm đó Bác muốn chọn một nơi thật yên tĩnh để hoàn thành văn kiện lịch sử “Lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước…” Chiều tối Bác về, Bác dặn thêm: “Các chú phải tôn trọng tín ngưỡng của nhân dân, giữ gìn, bảo quản để mai sau đất nước hoà bình làm nơi tham quan rất tốt”(8).
Đầu năm 1958, theo lời mời của Tổng thống Ấn Độ, Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm, trong chuyến đi có buổi đến chùa lễ Phật, Người viết: “Bác và đoàn do các vị Hoà thượng đưa lên lầu trên là nơi thờ Đức Phật…”(9). Kể lại buổi lễ hôm đó, hoà thượng Thích Minh Châu thành kính: “… Tôi thắp nén hương và kính cẩn đưa lên cụ. Trước bàn thờ Phật, Hồ Chủ tich trang nghiêm vái rồi cắm nén hương vào bát… Thấy Người thành kính dâng hương Đức Phật, lòng chúng tôi xiết bao xúc động, tưởng chừng như nước mắt muốn tuôn trào…”(10). Tổng thống Ấn Độ tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh cây bồ đề nhỏ được chiết từ cây bồ đề lớn nơi Đức Phật Thích Ca thành đạo, Người đã cho trồng tại chùa Trần Quốc, một trong những ngôi chùa linh thiêng bậc nhất của Thủ đô.
Sinh nhật 19-5-1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến chùa Hương (Hà Tây) thành tâm kính lễ Phật Bà Quan Thế Âm đầy quyền năng, nguyện tâm luôn lắng nghe lời kêu cầu, cứu giúp chúng sinh. Trước khi về, Hồ Chí Minh không quên nhắc nhở chính quyền nhân dân phải bảo vệ và xây dựng chùa ngày càng đẹp hơn.
Trung tướng cảnh vệ Hoàng Hữu Kháng, người cận vệ lâu năm của Chủ tịch Hồ Chí Minh không quên những việc làm đã trở thành ý thức: “Bác đến thăm một ngôi chùa lịch sử… Đến thềm chùa, Bác dừng lại để dép ở ngoài như mọi người, xong mới bước vào và giữ đúng mọi nghi thức như người dân đến lễ”(11).
Đồng chí Đặng Tính, Chính uỷ Quân chủng Phòng không Không quân khắc sâu một kỷ niệm không bao giờ quên: “Ngày sung sướng hạnh phúc nhất… nhớ nhất là ngày đưa Bác về thăm quê… đêm đó, mình trăn trở không sao ngủ được… mở bừng mắt trời đã hửng đông… mình ngồi dậy, Bác cười: Hôm qua lạ nhà, chú không ngủ được hả?
Mình giật mình, sao Ông cụ lại biết được nhỉ? Bác cười cười: Bác ngủ nhưng lại là thiền, nhập định đó, Bác hiểu thấu cả”(12).
Đúng như Hồ Chí Minh chỉ dạy, đạo Phật có nhiều phương pháp dẫn người chân tâm trì luyện đến thông thiền nhập định, bước đầu là ngồi thiền, qua thời gian kiên trì đến độ nhuyễn tâm trí: đi thiền, đứng thiền, nằm thiền và trạng thái thăng hoa trí tuệ đạt ý, thần, thứcđến nhập địnhthông suốt, hiển nhiên người kiên tâm sẽ đắc pháp hiểu thấu cảmọi lẽ huyền vi và chân thức tiên tri vượt không gian, thời gian.
Bởi hiểu thấu cả, Hồ Chí Minh tiên tri những sự kiện cách mạng Việt Nam và thế giới theo đúng thời gian định trước vài năm hoặc hơn chục năm. Đồng thời, Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo, trao trọng trách cho người cộng sự, các tướng lĩnh chuẩn bị chiến lược chiến thuật chiến tranh và thế trận chiến đấu đến từng chi tiết, phù hợp mỗi giai đoạn chiến tranh khác nhau, nhằm giảm tổn thất xương máu, tài sản của đồng bào, chiến sĩ và giành thắng lợi to lớn. Hồ Chí Minh liên tục tiên tri: “1945: Việt Nam độc lập, chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, chiến thắng Điện Biên Phủ trên không,… 15 năm nữa miền Nam sẽ được giải phóng…” phải chăng đó chính là nhập địnhthông suốt không gian, thời gian của đạo Thiền và Người trở thành vị Chủ tịch huyền thoại, là linh hồn dẫn dắt mọi thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam.
Trọn cuộc đời, Hồ Chí Minh đến nhiều vùng núi linh, chùa, đền thiêng bậc nhất của nước Việt như: chùa Hương, chùa Một Cột, chùa Quán Sứ, đền Hùng, đền Kiếp Bạc, đền Cổ Loa, đền Ngọc Sơn, chùa Thầy, chùa Trầm, chùa Côn Sơn… thành kính thắp hương, thông suốt linh mạch thiên - địa – nhânvà kết nối âm phù dương trợ. Tại chùa, Người không quên yêu cầu các vị sư “ra sức cầu Phật cho kháng chiến chóng thành công” (13).
Ngay sau khi giành độc lập, hiểu rõ tầm quan trọng của vùng đất linh, chùa thiêng và hiểu lời tiên tri của Đức Phật, loài người sẽ có thời kỳ suy đồi, đạo bị cấm, chùa, đền, đình… bị tàn hại. Hồ Chí Minh khẩn cấp ký Sắc lệnh số 65 (23 – 11 – 1945) nhanh chóng kịp thời chặn tay kẻ ác: “Bảo tồn tất cả cổ tích trong toàn cõi Việt Nam , cấm phá huỷ đình, chùa, đền, miếu, các cổ vật… có ích cho lịch sử” (14).
2. Tư tưởng nhân văn hoà bình của đạo Phật
Hơn 2.500 năm nay, cảm thông nỗi khổ sinh, bệnh, lão, tử, vô minhcủa con người, Đức Phật nguyện khơi mở “bản tính Phật”trong từng con người, tràn toả niềm vui niết bàn ngay tại cõi đời đang sống.
Hồ Chí Minh thấm đẫm lời Phật và thề nguyện: “Tôi kính cẩn cầu nguyện Đức Phật bảo hộ Tổ quốc và đồng bào ta… thế là chúng ta làm theo lòng đại từ đại bi của Đức Phật Thích Ca” (15).
Từ bi, nghĩa cả của Hồ Chí Minh đượm nỗi đau dân tộc và xã hội loài người. Người viết Tuyên ngôn độc lập - một áng hùng văn tuyệt bút, đanh thép lên án kẻ thù hãm hại, áp bức các thành phần giai cấp, mọi tầng lớp nhân dân, trong đó có cả nhà tư sảnvà dân buôn. Người triết luận: “Hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp… làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng. Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên…” (16). Thấy rõ vai trò của “nhà tư sản” và “dân buôn” trong sự nghiệp hưng thịnh dân tộc, với tấm lòng tha thiết, Hồ Chí Minh gửi thư cho giới Công – Thương mong muốn: “Giới Công – Thương phải hoạt động để xây dựng một nền kinh tế và tài chính vững vàng và thịnh vượng. Chính phủ nhân dân và tôi sẽ tận tâm giúp giới Công – Thương…” (17).
Với các nhà tư bản nước ngoài, Hồ Chí Minh chân thành hoà hợp: “Chúng tôi rất hoan nghênh tư bản Pháp và tư bản các nước cộng tác thật thà với chúng tôi” (18).
Theo tư tưởng của Đức Phật: “Lấy ân trả oán, tăng ân giảm oán - Lấy oán trả oán, oán oán chất chồng”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần chủ động gặp gỡ hoặc viết thư gửi đến Tổng thống, lãnh đạo cao cấp, tướng lĩnh, binh sĩ và tù binh hai nước Pháp, Mỹ tỏ lòng thiện cảm, ứng xử văn hoá, không hằn thù, oán hận, mong muốn các dân tộc cùng hưởng độc lập, tự do và bình đẳng, giúp đỡ nhau trao đổi kinh tế, văn hoá… như những người anh em. Người từng đau lòng đến da diết: “Than ôi, trước lòng bác ái, thì máu Pháp hay máu Việt cùng đều là máu, người Pháp hay người Việt đều cùng là người… vì lẽ gì… mà đem máu quý báu của thanh niên Pháp đổ lên non nước Việt Nam… cần phải bắt tay nhau… gây dựng hạnh phúc chung” (19).
Thế kỷ XX, nhân loại chìm đắm trong nhiều cuộc chiến tranh lớn, nhỏ đầy biến động, trắc ẩn mang tính toàn cầu. Hồ Chí Minh cảnh tỉnh thảm hoạ sẽ có thể đến với loài người khi tìm cách xoá bỏ đẳng cấp và tôn giáo, đồng thời gợi viễn cảnh tốt đẹp khi đoàn kết, đại đoàn kếtmọi tư tưởng, tôn giáo, các thành phần giai cấp: “Thảm hoạ của đất nước đã xoá bỏ sự phân biệt đẳng cấp và tôn giáo. Người giàu người nghèo, quý tộc và nông dân, Hồi giáo và Phật giáo, đều hợp sức đoàn kết” (20). Thức cảm tư tưởng nhân văn hoà bình của Đức Phật, Hồ Chí Minh thành tâm gợi niềm tin mãnh liệt: “Rồi đây, bốn bể một nhà…” (21).
3. Vị thế Hồ Chí Minh trong nhận thức Phật giáo
Vài thế kỷ qua, dân tộc Việt nam sống cảnh khổ đau, đoạ đày bởi các cuộc nội chiến, tranh giành quyền lợi giữa các thế lực và gần thế kỷ chịu áp bức, bóc lột dưới chế độ thực dân Pháp. Các sĩ phu yêu nước, trí thức cùng muôn dân cầu nguyện câu sấm “ Nam Đàn sinh thánh” của Trạng Trình Nguyễn Bình Khiêm sớm thành hiện thực.
Học giả Đào Duy Anh hỏi về sự ứng nghiệm câu sấm Trạng, chí sĩ Phan Bội Châu khẳng định: “ Nam Đàn sinh Thánh… chính là ông Nguyễn Ái Quốc”. Nhân sĩ Huỳnh Thúc Kháng – Phó Chủ tịch nước - gần gũi với Hồ Chí Minh, khâm phục khả năng thấu thiên cơcủa Người: “Tầm con mắt trông cao tột bậc, nhìn rõ đại cuộc xét thấu thiên cơ”.
Các lãnh tụ cao cấp, nhân sĩ trí thức: Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt, Phan Anh… đều ca ngợi tài tiên tri vượt không gian, thời gian của Hồ Chi Minh và Võ Nguyên Giáp sớm kính trọng tầm nhìn siêu việt, Đại tướng cởi mở, hào hứng: “Bác thường kể… tình hình thế giới, trong nước và dự đoán tương lai. Bác nói chừng bốn hay năm năm nữa, cách mạng Việt Nam sẽ thành công… câu nói của Bác… giống như lời sấm truyền” (22).
Hồ Chí Minh ngay từ thời trai trẻ luôn nung nấu tâm trí “muốn nên sự nghiệp lớn” đòi hỏi phải: “Đêm ngày nghĩ đến sự nghiệp cách mạng và cứu độ nhân loại (23).
Sau hơn 30 năm bôn ba nước ngoài tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh về nước, lực lượng theo về chỉ có 43 chàng thanh niên cách mạng nghèo nhưng đầy tấm lòng và trí tuệ. Với hai bàn tay trắng, không có tiền, không có vũ khí, không quân đội, lúc này quân đội Pháp, Nhật và chính phủ Nam triều có gần 15 vạn quân từng chinh chiến, trang bị vũ khí, khí tài đầy đủ. Vậy mà, tại Pác Bó (Cao Bằng), Hồ Chí Minh tự hào khẳng định trọng trách trước vận mệnh dân tộc, hứng khởi viết bài thơ đầu tiên khi vừa bước chân về nước, như lời sấm truyền: Hai tay xây dựng một sơn hà.
Cuối năm 1941, Hồ Chí Minh viết Lịch sử nước ta diễn giải những sự kiện lớn trong lịch sử và sự nghiệp lừng lẫy của các anh hùng, danh nhân văn hoá bằng thể thơ ca dao truyền cảm, dễ nhớ, dễ vào tâm trí muôn người, tuyên truyền khơi sâu lòng yêu nước, khí phách quật cường.
Năm 1943, ra khỏi tù, tính đúng thời cơ, vận nước, Hồ Chí Minh đã về nước lãnh đạo muôn dân đoàn kết khởi nghĩa giành độc lập tự do, mặc dù quân đội chưa thành lập, Người vẫn tin tưởng, cảm khái:
Non nước của ta ta lấy lại,
Nghìn thu sự nghiệp nổi từ đây (24)
Cơ hội tốt “nghìn năm có một” được Hồ Chí Minh chỉ rõ từ lâu và chính là cuộc cách mạng 1945, trong cuốn thơ Lịch sử nước ta , Người viết:
Ấy là nhịp tốt cho ta
Nổi lên khôi phục nước nhà tổ tông
Và, Cách mạng tháng Tám (1945) thành công diệu kỳ, giành độc lập, tự do cho dân tộc.
Cùng sứ mệnh cao cả như Đức Phật, cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn, đầu năm 1949, Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào nhận rõ trách nhiệm lớn lao: “Tôi rất đau lòng thương xót đồng bào… Tôi, người phụ trách số phận đồng bào, chưa lập tức… cứu vớt ngay đồng bào ra khỏi địa ngục thực dân…” (25).
Hai mươi năm sau (1961), Hồ Chí Minh lên thăm hang Pác Bó (Cao Bằng), hồn hậu thẩm định lời tiên tri:
Hai mươi năm trước ở hang này…
Non sông gấm vóc có ngày nay (26)
Vào giờ đẹp, ngày đẹp, tháng đẹp, Hồ Chí Minh viết Di chúc suốt năm năm trời, chắt chiu từng con chữ, đắn đo mỗi sự kiện, Người bình thản, ung dung với tâm trạng sáng suốt, minh mẫn của bậc hiền triết, hết sức chủ động, dặn dò mọi việc cần biết và phải làm. Người trải lòng thanh thản về một sự nghiệp, kháng chiến nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi, nhưng có thời hạn kéo dài mấy năm nữa. Hồ Chí Minh ghi lại cho lãnh đạo, đồng báo, chiến sĩ biết ngày quan trọng: “ Phòng khi tôi sẽ đi gặp…” trở về cõi người hiền “ cưỡi rồng lên thượng giới”, để mọi người khỏi cảm thấy đột ngột,, mà càng vững tâm với điều tiên tri kỳ diệu “ Mỹ cút… ngụy nhào”, chuẩn bị đón ngày thắng lợi.
Một việc không kém phần quan trọng, Hồ Chí Minh thấy cần giữ trọn đạo nghĩa: “Mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm…” (27), Người sớm chỉ rõ: “Tạo nên đài kỷ niệm vĩnh cửu cho linh hồn bất diệt của con người chiến bại vĩ đại đó… (28) và là nơi an nghỉ, tụ hội các anh hồn liệt sỹ, vong linh đồng bào đã dâng hiến cuộc đời cho Tổ quốc”. Theo Di chúc của Hồ Chí Minh, từ thành phố, tỉnh đến làng, xã… phải chăng trên hành tinh, Việt Nam là nước đã dựng nhiều nhất, xây hàng loạt con số khoảng hơn vạn bia kỷ niệm, đài liệt sĩ, nhà tưởng niệm… hiếm có dân tộc nào trên trái đất, thuận đạo nghĩa tình, thực hiện Di chúc tiếp nối văn hoá tâm linh truyền thống từ ngàn xưa.
Viết Di chúc, Hồ Chí Minh lưu lại cho muôn đời con cháu, một văn bản hiếm thấy trong tầm thức các nguyên thủ quốc gia khi Người tận thức, lo lắng đầy đủ cho lớp người đang sống, hơn nữa dung thông mọi linh thể trong ba cõi thiên - địa – nhântheo tư tưởng Phật giáo.
Sau khi qua đời, Người được nhân loại suy tôn là vị Chủ tịch huyền thoại, “ một trong những bộ óc vĩ đại nhất của thế kỷ XX” (Báo Time của Mỹ) một vĩ nhân được viết đến nhiều nhất trên báo, tạp chí, hội thảo khoa học ở nhiều nước trên thế giới và tôn xưng cao quý Danh nhân văn hóa, Anh hùng giải phóng dân tộctrong tầm thế hiếm hoi ở thế kỷ XX.
________________
1, 2. Hội thảo Quốc tế Chủ tịch Hồ Chí Minh …, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 227, 166.
3. Võ Nguyên Giáp, Những chặng đường lịch sử , Nxb Văn học, 1977, tr. 41.
4. Bác Hồ hồi ký , Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội 2001, tr. 209.
5, 6. Đầu nguồn , Nxb Văn học, 1975, tr. 374.
7. Văn nghệ công an, số 8-2004.
8, 9. Nguồn sức mạnh … Nxb Sự thật, 1995.
10. Thích Minh Châu, Nghiên cứu Phật học, số 2-1995.
11. Những năm tháng bên Bác , Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội, 1985, tr. 135.
12. Báo Tiền phong, ngày 11-8-1996.
13. Vũ Kỳ, Càng nhớ Bác Hồ , tr. 330.
14. Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử , tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 74.
15, 18, 25. Sđd, tập 5, tr. 197, 156, 560.
16, 17, 19, 23. Sđd, tập 4, tr. 2, 49, 457, 357.
20, 28. Sđd, tập 1, tr. 41, 80.
21. Sđd, tập 8, tr. 362.
22. Võ Nguyên Giáp, Pác Bó - suối nguồn , Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội, tr. 130.
24. Sđd, tập 3, tr. 441.
27. Sđd, tập 12, tr. 503.