Tìm trong sử vàng: Lưỡng quốc khôi nguyên
Năm 28 tuổi, ông đỗ Hội nguyên, Đình nguyên, Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh (thám hoa) khoa Bính Tuất, niên hiệu Phúc Thái 4 (1646) đời Lê Chân Tông. Cùng khoa thi này, em ruột ông là Nguyễn Đăng Minh cũng đỗ tiến sĩ. Sau đó, ông lại đỗ đầu khoa Đông các, được bổ chức Đông các đại học sĩ năm 1659.
Bắc Ninh địa chícủa Đỗ Trọng Vĩ ghi: Nguyễn Đăng Cảo hồi trẻ có tài lạ, truyện đọc một lần là nhớ, người đương thời gọi là thần đồng. Thi Hương, thị Hội, thi Đình, thi Đông các, ông đều đỗ đầu. Đi sứ sang nhà Thanh nổi tiếng, được triều đình Thanh rất khen ngợi và phê tặng danh hiệu Khôi nguyên.
Năm Kỷ Mùi triều Phúc Thái, ông hộ tống đoàn đi sứ nhà Thanh đến Lạng Sơn, sứ nhà Thanh ra đối rằng:
Điều nhập phong, thực tận trùng nhi hoá phượng.
(Chim vào gió ăn hết sâu mà hoá phượng)
(Chữ phượnggồm chữ điểuviết trong chữ phong)
Ông đáp rằng:
Nhân cư nhân trắc, đả phi thạch dĩ thạch tiên.
(Người ở cạnh núi, đẽo đá để thành tiên)
(Chữ nhânđứng bên cạnh chữ nhambỏ chữ thạch, thành chữ tiên)
Đến cửa ải sau một tuần mưa dầm dề, bỗng nhiên trời hửng nắng, sứ Tàu đem sách ra phơi, ông cũng kê ghế, rải chiếu nằm phơi bụng ra, sứ Thanh hỏi: “Sao ông lại làm như vậy?”. Ông đáp: “Sứ thần thượng quốc phơi sách, tôi phơi bụng”. Sứ Thanh thử tài nói: “Sách Đại học bản chính bị đốt mất rồi, phiền ngài viết lại cho”. Ông viết lại từ chính văn đến chú giải lớn, nhỏ như bản gốc, sứ Thanh kinh ngạc nói: “Năm trước quan Thái sứ (Trung Hoa) tâu vua rằng: “Sao Văn Khúc giáng ở An Nam!” quả đúng như vậy.
Tiếng đồn đến tai vua nhà Thanh, vua Thanh thử tài, bảo ông làm bài phú giải thích cho chư hầu về việc róc tóc. Ông làm xong ngay và đệ trình. Vua nhà Thanh hết lời khen ngợi và phê rằng: “Lời gọn, ý tận và sâu sắc, phong thêm là Khôi nguyên Bắc triều” (như vậy ông là “Lưỡng quốc Khôi nguyên”).
Sau nhà Thanh lại đưa thư bắt ta nộp giường đồng một cái, 100 ông già đầu bạc, 100 người con gái tóc dài. Các quan không biết xử trí ra sao, ông nói: “Bắc triều loạn đã lâu, chi dùng không đủ nên đòi ta”.
“Tôi xin 100 gốc lúa, 100 thúng muối, 100 con dê cái, để nộp”. Người nhà Thanh thấy vậy kính phục. Họ lại đưa mười vuông gấm, đòi may thành các loại áo, xiêm, khăn, chăn, màn. Các quan không biết làm thế nào. Ông xin may một áo cổ dài, ống tay to và một cái quạt trong đề mấy câu rằng: “Mặc trên là áo, trang điểm ở dưới là xiêm, có dòng là khăn, có ống là túi, khoanh đầu là mũ (miện), buông xuống có thể là màn, cho mình là chăn, vải xấu có thể trải giường”. Tất cả cùng với tờ biểu đưa nộp cho họ. Người nhà Thanh bấy giờ kính phục và than rằng: “Địa linh, nhân kiệt đời nào cũng có, nhưng vượt trội hơn cả từ nay về sau chỉ có một Đặng Hạo”.
Nguồn: Báo Nhân dân hàng tháng, số 96, 4/2005, tr 17