Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 27/08/2009 19:55 (GMT+7)

Tìm hiểu đôi điều về trâu

I. Lai lịch về trâu

Ở Việt Nam cho đến nay, đã tìm được xương, răng hóa thạch của trâu rừng rải rác nhiều nơi: Ở hang Chùa thuộc huyện Tân Kỳ (tên địa danh xưa) thuộc Nghệ An, đã thấy rõ có xương, răng trâu rừng; ở Thẩm Dương thuộc huyện Tuần Giáo (Lai Châu) cũng có hoá thạch xương, răng trâu rừng... Sang giai đoạn Đông Sơn, xương, răng trâu rừng được phát hiện nhiều hơn và đa dạng hơn; ở núi Nấp (Đông Sơn, Thanh Hoá) năm 1936 đã đào được xương, răng trâu ở độ sâu 2m; ở Thiệu Sơn cũng đào được sừng sọ, xương chi và răng trâu. Còn các địa danh khác như: Tây Bắc, Cao Bằng... cũng đều tìm thấy răng, xương trâu hoá thạch. Qua những khai quật khảo cổ học ở Việt Nam cho phép rút ra kết luận bước đầu, trâu rừng đã xuất hiện rõ ràng hơn và tồn tại cho đến nay.

Theo Henri Monestrol (1910) xác định có trâu rừng ở lưu vực sông Đồng Nai, sông Cửu Long và vùng biên giới ba nước: Việt Nam , Campuchia và Lào. Trâu rừng rất khoẻ, thân dài, bụng thon rất hung dữ, lông rất đen, sừng dẹt rất phát triển. Trên sừng có nhiều vạch ngang, trừ chóp sừng, sừng có thể dài 1,5m (đo theo chiều cong sừng). Chúng sống ở nơi đầm lầy và rừng ẩm. Cho đến nay còn lác đác một vài đàn trâu rừng trong rừng rậm ở Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây Bắc và cũng còn ở vùng rừng rậm trên bán đảo Đông Dương.

Có nhiều khả năng, chính từ trâu rừng bản địa này, người Việt cổ đã thuần hoá chúng thành trâu nhà hiện nay, có thể cách đây 4-4,5 nghìn năm. Do có văn minh lúa nước nên đã gắn liền với hình bóng con trâu để giúp cho con người mà không có con vật nào thay thế được. Người Việt cổ biết trồng lúa nước từ rất sớm và đã sử dụng con trâu theo cách “hoả canh, thuỷ nậu” (quần ruộng bùn cho ngấu), trong thời gian dài trước công nguyên chưa biết sử dụng cày bừa. Với nền văn hoá phát triển, người Việt cổ biết sử dụng cày bừa và lưỡi cày Đông Sơn đã xuất hiện, có từ 100 năm trước công nguyên.

Cùng với sự phát triển văn hoá, con trâu đã đi vào đời sống tinh thần. Trong các di cảo cổ đều có những tượng trâu (Đồng Đậu, Tiên Hội); mặt trống đồng làng Ro làng vạc có khắc những cặp trâu bò; những đình chùa ở Thổ Tang (Vĩnh Phúc); Nam Hoành, Chu Quyến (Hoà Bình) có khắc những hình con trâu đang cày ruộng. Những bức tranh dân gian, những chuyện cổ tích của nhiều dân tộc có nói về con trâu, những địa danh như: Kim Ngưu, Đa Ngưu (Hưng Yên)... đã bổ sung thêm cho lịch sử thuần hoá về con trâu.

Quá trình thuần hoá rồi thuần dưỡng con trâu qua nghìn năm là do lao động của con người. Trong những điều kiện xã hội và hoàn cảnh thiên nhiên nhất định của từng thời kỳ, từng vùng, từng nơi... ít nhiều đã làm thay đổi ngoại hình, thể chất và sức làm việc của trâu. Nhưng con trâu vẫn phục vụ lợi ích của con người.

II. Khả năng làm việc và cho thịt của trâu

Con trâu Việt Nam chuyên được dùng để kéo cày từ lâu đời, nên có ngoại hình và thể chất thích hợp: xương cốt to, bắp thịt săn chắc, thân thấp, ngắn mình, phần trước phát triển hơn phần sau, phổi to... Tuy chậm hơn bò, nhưng về khả năng cày, kéo trâu có nhiều ưu điểm hơn. Trâu có thể cày bừa trên các loại đất nặng, nhẹ, ruộng khô, ruộng nước, lầy thụt nhất là vùng chiêm trũng, ruộng nhiều nước phải làm dầm thì con trâu hoàn toàn chiếm ưu thế. Về kéo, trâu có thể kéo xe, kéo gỗ, kéo máy ép mía, ép dầu... trên các loại đường phức tạp của miền núi, trung du và đồng bằng.

1. Khả năng cày bừa: Lực kéo phụ thuộc nhiều yếu tố là tầm vóc, thể trạng và mức độ huấn luyện, sử dụng và chăm sóc trâu. Nhìn chung, trâu có tầm vóc lớn thì sức kéo lớn; nhưng công của một trâu khi thao tác sản ra còn phụ thuộc vào tốc dộ di chuyển lúc kéo cày hay bừa. Vì vậy, việc luyện tập cho trâu là rất cần thiết. Thực tế cho thấy, có những con trâu tầm vóc loại B, loại trung bình, được huấn luyện, sử dụng tốt, làm việc không kém trâu loại A, loại khoẻ, nhất là sức dai bền.

Xét về sức kéo cày trong một buổi là 3 h30 thì:

-         Một trâu cái khoẻ cày được: 773 - 784 m 2

-         Một trâu cái trung bình cày được: 571 - 619 m 2

-         Một trâu thiến khoẻ cày được: 851 - 885 m 2

-         Một trâu thiến trung bình cày được: 560 - 644 m 2

-         Một trâu cái yếu cày được: 420 - 425 m 2

2. Khả năng kéo xe: Phụ thuộc vào lực kéo khoẻ hay yếu, trên con đường tốt hay xấu (hệ số ma sát nhỏ hay lớn). Cùng một lực kéo, hệ số ma sát của đường càng nhỏ, trọng tải hàng kéo càng nhiều và ngược lại. Ngoài ra, cấu trúc của xe cũng ảnh hưởng đến trọng tải.

Cạnh con bò và con ngựa, nhân dân có tập quán dùng trâu để kéo xe, nhất là ở những vùng đồi núi, đường dốc và xấu. So với giống bò vàng của ta, trâu kéo khoẻ và chắc hơn, hàng kéo được nhiều hơn, tuy tốc độ có chậm hơn.

Trâu được dùng để kéo xe chủ yếu là trâu thiến, trâu cà, rất ít trâu cái. Tuỳ theo đường mà sức trâu có thể kéo:

-         Trên đường tốt: sức kéo có thể đạt: 850 – 950 kg

-         Trên đường xấu: sức kéo có thể có thể đạt: 375 – 450 kg

-         Trên đường đá dăm vùng đồng bằng: 1 – 1,3 tấn hàng

-         Xe kéo bánh hơi trên đường nhựa: 1,8 – 2,0 tấn hàng.

3. Khả năng cho thịt:do các phương tiện cơ giới phát triển nên đã và đang thay thế dần các thao tác cày, kéo của trâu. Nhưng, ở các vùng miền núi còn phù hợp, cơ giới chưa thay thế hết được cho tập quán du canh và vận chuyển trên đường dốc. Con trâu có khả năng cng cấp thịt cho nhu cầu dân sinh, nhiều nơi thịt trâu đã trở thành “đặc sản”.

Thịt trâu tơ mềm vì thớ thịt nhỏ; còn ở trâu già, qua thời gian lao tác, cơ thể phải làm việc nhiều, tiết diện thớ thịt tăng lên làm cho thịt dai. Thịt trâu tơ mềm và ngon hơn thịt bò tơ, qua phân tích thịt trâu đã kết luận: giá trị dinh dưỡng của thịt trâu cao hơn thịt bò do tỷ lệ protein, axit phosphoric, Fe nhiều hơn. Tuy vậy, đa số nhân dân ta vẫn ưa dùng thịt bò hơn vì cho rằng thịt trâu lạnh, hôi và độc hơn. Đó là điều không có cơ sở khoa học vững chắc. Ở một số nước như Azecbaizan, Ameni... Thịt trâu tơ được chuyên dùng bồi dưỡng cho các bệnh nhân suy dinh dưỡng, thiếu máu trong các bệnh viện.

Qua khảo sát độ dày thịt suờn, đùi, thăn và độ dày thịt hông cho thấy:

Độ dày thịt sườn (xương sườn số 7 - 8) ở trâu cái, bình quân là 3,2 cm (2,7 - 3,7 cm); ở trâu thiến 4,22 (3,2 - 5,5 cm).

Độ dày thịt đùi ở trâu cái là 19,92 cm (17,5 - 25 cm); ở trâu thiến là 24,16 cm (20,7 - 28 cm).

Độ dày thăn ở trâu cái là 3,84 cm (3,2 - 4,55 cm); ở trâu thiến là 4,91 cm (4,05 - 6,37 cm)

Độ dày thịt hông ở trâu cái là 34,11 cm (32 - 37,5 cm); ở trâu thiến là 36 cm (33,2 - 38 cm).

Như vậy, các chỉ tiêu trên ở trâu thiến hơn trâu cái rõ rệt.

Phân tích thành phần hoá học của thịt trâu cho kết quả sau:

-         Ni tơ: 70,00 - 75,67%

-         Protein: 19,60 - 21,93%

-         Lipit: 1,93 - 4,92%

-         Gluxit: 1,19 - 1,26%

-         Tro: 0,82 - 0,87%

So với thịt bò có tỷ lệ protein là 17 - 20%, thì thịt trâu có hàm lượng cao hơn: 19,60 - 21,93%; lượng muối khoáng cũng đáng chú ý nhất là hàm lượng P (145 - 186,6 mg, Fe...).

Lai lịch và mọi khả năng của trâu, tuỳ theo giai đoạn của xã hội, tuỳ theo từng vùng, từng nơi và tuỳ theo yêu cầu, con trâu vẫn giữ được nguyên giá trị của nó, đáp ứng nhu cầu sản xuất và phục vụ dân sinh. Cần nuôi dưỡng chăm sóc tốt, bảo vệ sức khoẻ cho nó, nhất là trong các mùa rét, đừng để trâu ngã nhiều như năm trước đây.

Xem Thêm

Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Ngày 25/6/2025, tại Tp. Huế, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) chủ trì, phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thành phố Huế (Liên hiệp Hội TP. Huế) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức để góp phần tích cực cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023”.
An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Công nghệ mới trong xử lý chất thải góp phần phát triển bền vững ngành chăn nuôi Việt Nam
Ngày 3/7, Liên hiệp Hội Việt Nam phối hợp với Liên hiệp hội tỉnh Bắc Ninh và Hội Chăn nuôi Việt Nam tổ chức Hội thảo Phổ biến một số công nghệ mới có hiệu quả trong xử lý chất thải chăn nuôi. Hội thảo thu hút sự tham dự của đông đảo người sản xuất, kinh doanh, hộ chăn nuôi và doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.
"Sắp xếp lại giang sơn” là bước đi lịch sử
Sáng 30/6, Tổng Bí thư Tô Lâm dự Lễ công bố Nghị quyết của Quốc hội về sáp nhập tỉnh, thành phố cùng các quyết định của Trung ương Đảng thành lập đảng bộ tỉnh và nhân sự lãnh đạo địa phương tại Thành phố Hồ Chí Minh và có bài phát biểu với nhân dân Thành phố, đồng thời gửi gắm thông điệp tới nhân dân cả nước.
Phối hợp thúc đẩy giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật
Vừa qua, Viện Tài chính vi mô và Phát triển cộng đồng (MACDI) - tổ chức trực thuộc VUSTA - đã có buổi làm việc và ký kết thỏa thuận hợp tác với Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Y tế và Liên hiệp hội tỉnh nhằm triển khai Dự án “Thúc đẩy giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật tại An Giang, Bắc Ninh và Hòa Bình với sự tham gia của nhóm hỗ trợ trẻ hòa nhập”.
Công bố giải thưởng Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật tỉnh Quảng Trị lần thứ XI
Sáng ngày 30/6, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật tỉnh Quảng Trị tổ chức Công bố các quyết định khen thưởng và trao thưởng Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật tỉnh Quảng Trị lần thứ XI (2024 – 2025). Tham dự có các thành viên trong Ban Tổ chức Hội thi; các tác giả, nhóm tác giả của 23 giải pháp, đề tài đạt giải tại Hội thi lần này.
Đoàn công tác VUSTA làm việc với CDC tỉnh Quảng Ninh về công tác phòng/chống HIV/AIDS
Chiều ngày 27/6, Đoàn công tác của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) đã có buổi làm việc với Lãnh đạo Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Quảng Ninh (CDC) nhằm đánh giá tiến độ, kết quả triển khai các hoạt động trong khuôn khổ dự án Quỹ toàn cầu - VUSTA về phòng, chống HIV/AIDS.
Thanh Hóa: Sơ kết hoạt động 6 tháng đầu năm và phát động Giải thưởng Sáng tạo KHCN năm 2025
Ngày 27/6/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành mở rộng lần thứ 4 nhiệm kỳ 2024 - 2029 về sơ kết hoạt động 6 tháng đầu năm 2025, triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm và phát động tham gia Giải thưởng Sáng tạo Khoa học công nghệ Việt Nam năm 2025 (Giải thưởng).
An Giang: Anh nông dân truyền cảm hứng giáo dục STEM
Anh Nguyễn Ngọc Đệ - một nông dân chỉ học hết lớp 6, hiện sinh sống tại xã Vĩnh Hanh, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang - đã xuất sắc đoạt giải Nhất tại Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật tỉnh An Giang lần thứ XIV (2024-2025) với giải pháp mang tên “Mô hình Hạm đội Trường Sa phục vụ giáo dục STEM”.