Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 23/06/2006 00:29 (GMT+7)

CCAP - “doanh nghiệp mũ đỏ” trong hệ thống nghiên cứu Trung Quốc

Hai mươi năm sau, những dấu hiệu chomột công cuộc cải cách tương tự trong hệ thống nghiên cứu đang bắt đầu nhen nhóm. Trung tâm Nghiên cứu Chính sách Nông nghiệp TQ (CCAP) thuộc Viện Hàn lâm TQ đang đi tiên phong trong tiến trình này.“Chúng tôi đang làm những chuyện mà 10 năm nữa sẽ là tất yếu ở đất nước này”, Ji Kun Huang- Giám đốc CCAP khẳng định một cách tự tin. Huang hoàn toàn có cơ sở để chứng tỏ một xu thế không thể đảongược.   

Những ngày đầu khó khăn

Tốt nghiệp Tiến sĩ ở Đại học Nông lâm UPI (Philipin) năm 1990, trở về nước Huang công tác ở Viện Kinh tế Nông nghiệp thuộc Học Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp (Bộ Nông nghiệp). Giai đoạn 1992- 1995, Huang sang làm nghiên cứu cho Viện Lúa Quốc tế- IRRI (Philippin); trường đại học Stanford (Mỹ) và Viện Chính sách Lương thực Quốc tế- IFPRI ( Washington DC ). Tham gia các hoạt động nghiên cứu ở các Viện và trường danh tiếng đã giúp Huang học hỏi rất nhiều về cơ chế quản lý hiệu quả, những phương pháp phân tích hiện đại, công cụ hữu hiệu hỗ trợ ra quyết định chính sách. Huang nhận thấy những mô hình kinh tế với nhiều kịch bản, lựa chọn chính sách và dự báo sẽ giúp cho các nhà hoạch định chính sách có cơ sở khoa học để đưa ra các lựa chọn sát với thực tiễn và có cơ sở khoa học.

Nếu như thập kỷ 80 chứng kiến sự phá rào của nông dân làm nên sự kiện khoán hộ vĩ đại, mở ra đổi mới của kinh tế Trung Quốc và thập kỷ 90 chứng kiến sự phá rào của tiểu chủ làm nên phong trào công nghiệp Hương trấn, những năm đầu của thế kỷ 21 này có lẽ sẽ chứng kiến sự vượt rào mới của đội ngũ nhân tài trẻ, làm nên cuộc Cách mạng Khoa học công nghệ, đưa Trung Quốc bước vào cửa ngõ của nền kinh tế tri thức. 

Là một người đã nhiều năm làm việc trong hệ thống nghiên cứu trong nước và quốc tế, Huang thấu hiểu một khoảng cách về nghiên cứu giữa trong nước và quốc tế. Một điều có vẻ nghịch lý là, những chuyên gia nước ngoài đến làm nghiên cứu về TQ mang theo những kỹ năng phân tích hiện đại, thường đưa ra những gợi ý chính sách hợp lý hơn cả những chuyên gia trong nước. Tuy nhiên, các chuyên gia này chỉ đến theo thời vụ, theo những đơn đặt hàng của các tổ chức quốc tế hay các chương trình. Hết thời hạn họ lại rời TQ và trở về nước. Rõ ràng những nghiên cứu như vậy không hẳn xuất phát từ bản thân yêu cầu của thực tiễn, của nhu cầu phát triển hay đáp ứng những bức xúc mà Chính phủ đang đặt ra. Ý tưởng về xây dựng một mô hình nghiên cứu quy chuẩn quốc tế ngay trên đất TQ, do chính người TQ thực hiện bắt đầu nhen nhóm trong Huang.

Năm 1995, được sự chấp thuận của Học viện Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc, Huang đã thành lập và trở thành Giám đốc CCAP. Trong thời gian này, nhờ có cuộc hội ngộ với Linxiu Zhang- Phó giám đốc CCAP, ý tưởng của Huang về phát triển một viện nghiên cứu độc lập ngày càng được nung nấu. Huang đến từ Hàng Châu và Linxiu đến từ Bắc Kinh; một người tu nghiệp từ Mỹ về và một người từ Anh về đều có chung quyết tâm muốn tập hợp lực lượng xây dựng một cách thức làm khoa học kiểu mới, một mô hình nghiên cứu khác với những gì đã và đang có ở TQ. Tuy nhiên, cả hai nhận thấy dưới cơ chế cứng nhắc, bó buộc của Học viện Khoa học Nông nghiệp TQ, những ý tưởng về một mô hình nghiên cứu mới không thể trở thành hiện thực. Có 3 lý do cơ bản ngăn cản CCAP phát triển: Ở các Viện thuộc Học viện khoa học TQ, người điều hành không có toàn quyền trong lựa chọn tuyển dụng, không có quyền sa thải cán bộ yếu kém; các viện của Học viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp  hiện còn dư thừa một lực lượng cán bộ năng lực kém, trở thành gánh nặng cho ngân sách nghiên cứu; Ngoài ra cơ chế quản lý quan liêu đã cản trở công tác nghiên cứu như: các thủ tục đệ trình lên các cấp để phê chuẩn hoạt động nghiên cứu hợp tác với quốc tế mất rất nhiều thời gian.

Được sự ủng hộ của một số lãnh đạo của Học viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc, năm 2000, Huang cùng với các đồng nghiệp trẻ thành lập một trung tâm mới (vẫn mang tên CCAP).

Những ngày đầu Huang và Linxiu đã phải tốn rất nhiều công sức để gây dựng cơ sở vật chất và con người. Linxiu kể lại: “Thậm chí Huang đã phải bỏ tiền túi ra để mua sắm các trang thiết bị cho Trung tâm”. Trung tâm đã thực sự cất cánh khi được quỹ FORD tài trợ 200 ngàn USD. Đây không phải là một khoản tiền lớn song cho phép Huang có nguồn vốn đầu tư vào phát triển con người, nhắm tới một tương lai dài hơi. Chỉ hơn hai năm sau, CCAP đã trở thành một Viện nghiên cứu chính sách nổi tiếng trong nước và quốc tế, hoàn thành các nghiên cứu trong các lĩnh vực quan trọng như doanh nghiệp Hương trấn, hội nhập WTO, cung cầu gạo, nước cho sản xuất nông nghiệp... Tại các hội thảo trong nước cũng như quốc tế về TQ, thính giả luôn có ấn tượng về một diễn giả có cặp kính trắng dày, dáng người nhỏ gầy nhưng có một giọng nói tự tin và những ý tưởng sắc bén. Đó chính là Huang- Giám đốc CCAP. Đối với trong nước, CCAP trở thành một địa chỉ tin cậy để các nhà hoạch định chính sách tìm kiếm những kết quả phân tích, dự báo, ra các lựa chọn chính sách và chiến lược cho đất nước. Đối với nước ngoài, CCAP trở thành một đối tác chiến lược trong hoạt động nghiên cứu. CCAP đã trở thành nơi tiếp nhận những dự án viện trợ nghiên cứu quốc tế để hỗ trợ cho các nhu cầu hoạch định chiến lược, chính sách của các cơ quan Chính phủ TQ. 

Cơ chế gọn nhẹ, hiệu quả

Những năm qua, nền kinh tế TQđã thực hiện những bước chuyển mình mạnh mẽ từ kế hoạch sang thị trường. Các hoạt động sản xuất kinh doanh về cơ bản đã hoạt động dựa trên tín hiệu thị trường và ngày càng sôi động, đặc biệt là ở khuvực đô thị. Tuy nhiên, bộ máy hành chính vẫn còn khá trì trệ, đi sau thực tiễn và nhiều khi trở thành rào cản của thực tiễn. Như vậy, vô hình trung, ở TQ tồn tại hai hệ thống đối lập nhau: một bên làkhu vực kinh doanh bên ngoài (thu nhập cao, năng động) và một bên là cơ quan Nhà nước (thu nhập thấp, trì trệ). Kết quả là những cán bộ trẻ có năng lực, có ý chí vươn lên bị hút vào các hoạt độngkinh doanh chỉ còn lại những cán bộ năng lực yếu, an phận thủ thường vào các cơ quan Nhà nước. Nghịch lý này đã trở thành xu hướng, ngày càng gây ra những hậu quả tiêu cực. 

Trong bộ máy Nhà nước, khu vực nghiên cứu lại là nơi bảo thủ và chậm đổi mới nhất. Bộ máy nghiên cứu phình to, nhiều cán bộ chỉ có kiến thức cũ, quen với nếp tư duy cũ nên khi chuyển sang cơ chế thị trường, đòi hỏi ứng dụng phương pháp nghiên cứu mới, công nghệ hiện đại, đã không còn thích hợp, làm việc không hiệu quả. Ở rất nhiều viện nghiên cứu của TQ, cơ chế cũ như: hệ thống lương bổng thấp, chế độ công chức suốt đời đã không kích thích người làm nghiên cứu có động lực để phát huy tài năng, công tác nghiên cứu dựa trên phân bổ hơn là đấu thầu, các sản phẩm nghiên cứu làm ra không có khả năng áp dụng cao, chưa đi theo sát những yêu cầu thực tiễn và hỗ trợ các công tác hoạch định chiến lược và chính sách quốc gia, điều hành vĩ mô, trợ giúp thị trường hoạt động thông suốt.

Trong bối cảnh như vậy, CCAP của Học viện Hàn lâm Khoa học TQ là đơn vị nghiên cứu tiên phong của TQ áp dụng một hệ thống nghiên cứu cạnh tranh. CCAP không cần bất cứ một sự giúp đỡ tài chính nào từ Chính phủ, kể cả lương bổng và các khoản phúc lợi, tuy nhiên đổi lại Huang có được các điều kiện thuận lợi về quản lý và hoạt động tài chính. 
Về cơ cấu tổ chức, CCAP có 7 bộ phận nghiên cứu và 3 bộ phận hỗ trợ, chỉ với 13 tiến sỹ và 5 thạc sỹ là thành viên chính thức còn lại hoạt động theo hình thức liên kết. Việc tuyển dụng cán bộ của CCAP phải dựa trên nhu cầu và tính cạnh tranh thực tế tại Trung tâm. Có hai ủy ban tư vấn quốc tế và trong nước tư vấn về các quyết định quan trọng cho sự phát triển của CCAP như: tuyển dụng cán bộ, tăng lương, lập kế hoạch chiến lược. Tuy nhiên, Giám đốc của CCAP là người quyết định cuối cùng đối với mọi chính sách lớn. Các phòng ban của CCAP không cứng nhắc, dập khuôn theo những kế hoạch phát triển định trước mà hết sức mềm dẻo, chủ động thay đổi theo nhu cầu phát triển.

Tuy tổng số cán bộ nghiên cứu chính của CCAP chỉ vẻn vẹn dưới 20 người nhưng hoạt động rất hiệu quả. Chỉ trong vòng hơn 5 năm, CCAP đã xuất bản một số lượng lớn các công trình nghiên cứu trong nước và quốc tế: có 87 bài nghiên cứu trên các tạp chí quốc tế và 169 bài nghiên cứu trên tạp chí trong nước; 17 cuốn sách xuất bản.

Tuy tổng số cán bộ nghiên cứu chính của CCAP chỉ vẻn vẹn dưới 20 người nhưng hoạt động rất hiệu quả. Chỉ trong vòng hơn 5 năm, CCAP đã xuất bản một số lượng lớn các công trình nghiên cứu trong nước và quốc tế: có 87 bài nghiên cứu trên các tạp chí quốc tế và 169 bài nghiên cứu trên tạp chí trong nước; 17 cuốn sách xuất bản.
Giúp việc và phối hợp với các tiến sỹ đóng vai trò nghiên cứu viên đầu đàn là hàng chục nghiên cứu sinh, sinh viên công tác ở Trung tâm từ vài tháng đến một năm dưới dạng vừa học vừa làm. Họ là các tài năng được chọn lọc, có khả năng nghiên cứu và học tập tốt. Trung tâm cấp học bổng, trả lương khá cao cho đội ngũ trợ giúp nghiên cứu này và coi họ như cán bộ của mình.  

Kết nối nghiên cứu và hoạch định chính sách

Chiến lược nghiên cứu của CCAP là phân tích và đưa ra các dự báo về kinh tế vĩ mô, thương mại, phát triển của ngành nông nghiệp, nông thôn Trung Quốc, cung cấp thông tin thích hợp, kịp thời cho các nhà lãnh đạo và hoạch định chính sách. Chiến lược nghiên cứu nhắm vào những mục tiêu: Thực hiện nghiên cứu và phân tích chính sách thực tiễn và kịp thời; tạo ra một môi trường mở và sáng tạo cho các cuộc tranh luận chính sách và xây dựng năng lực nghiên cứu và đào tạo thế hệ nghiên cứu tương lai của TQ.
Những cuộc thảo luận mở cũng là một trong những chiến lược chính của CCAP để khuấy động môi trường tranh luận học thuật và chính trị. CCAP đã mở đều đặn một loạt các diễn đàn tranh luận chính sách nhằm chuyển tải và truyền đạt những khám phá nghiên cứu thành các thông tin có ý nghĩa dành cho các nhà hoạch định chính sách.
Sau 5 năm nỗ lực hoạt động, CCAP đã và đang nổi lên là một trong những địa chỉ tư vấn và tham khảo chính sách uy tín mà cho các nhà hoạch định chính sách TQ. Hiện CCAP là một trong những nơi tư vấn chính sách chính cho Bộ Nông nghiệp, Bộ Khoa học và Công nghệ, Ủy ban Kế hoạch Phát triển Nhà nước, Vụ Thống kê Nhà nước, và một số cơ quan trung ương dưới Hội đồng Nhà nước, Bộ Thủy lợi, Nhóm lãnh đạo xóa đói giảm nghèo và các nhà lãnh đạo chính quyền các cấp, các địa phương.

Các nguyên tắc để thành công

Vậy đâu là các nguyên nhân dẫn đến sự thành công của CCAP? Theo cô LinXiu thì  những yếu tố nền tảng của CCAP là: tạo nên một mạng lưới nghiên cứu rộng, huy động sức sáng tạo của tri thức, đầu tư vào con người và tạo một cơ chế về thu nhập đảm bảo động lực cho chuyên gia dồn tâm lực vào công tác nghiên cứu.

Về người đã xây dựng nên CCAP TS. Jikun Huang, cá nhân tôi đã biết tên tuổi của anh từ lâu trong các dịp hội thảo quốc tế ở Philippin, Bangkok , Seoul hay ở  Hà Nội. Năm ngoái, anh có tham dự hội thảo ở khách sạn Sofitel Hà Nội, sau đó chúng tôi có mời anh bữa ăn tối thân mật. Buối tối hôm đó thật vui vì những câu chuyện chân tình về học thuật và những ý kiến về sự phát triển bền vững của TQ. Anh kể rằng, anh có một kỷ niệm đáng nhớ với Thủ tướng Chu Dung Cơ (trong một cuộc Hội nghị của Chính phủ do ông chủ trì với giới khoa học về phát triển nông nghiệp Trung Quốc). Giữa hội nghị anh đã đứng lên phản đối quan điểm của Thủ tướng, bảo vệ quan điểm riêng về chiến lược phát triển thuỷ lợi. Sau đó, quan điểm này của anh đã được chấp thuận. Bản lĩnh của nhà khoa học làm chúng tôi thấy nể trọng anh hơn.

Tuy số lượng cán bộ nghiên cứu ít nhưng CCAP đã áp dụng một phương thức làm việc hiệu quả là liên kết và huy động mọi nguồn lực vào công tác nghiên cứu. Khi có các hoạt động nghiên cứu lớn, CAAP sẽ ký hợp đồng ngắn hạn với các chuyên gia, và các sinh viên sắp tốt nghiệp ra trường. Các sinh viên và nghiên cứu sinh được huy động vào các hoạt động nghiên cứu, cùng với các chuyên gia xuống địa phương điều tra, thu thập số liệu, nhập số liệu và chạy mô hình dự báo.
Sự công khai cởi mở về thông tin, công nghệ, công việc... đã khuyến khích các cán bộ chuyên môn học hỏi, chia sẻ kiến thức lẫn nhau để có thể tham gia phối hợp thực hiện những qui trình công nghệ nghiên cứu phức tạp có liên quan đến nhiều đơn vị, nhiều địa phương.
Trung Quốc có hàng trăm ngàn nhân tài được cử ra nước ngoài học tập. Trước đây, 80%- 90% các nhà khoa học sau khi tốt nghiệp thường ở lại làm việc ở nước ngoài. Hiện nay, với các chính sách “chiêu hiền, đãi sĩ” mới, tỷ lệ cán bộ trở về nước công tác đã cao hơn đáng kể. Trở ngại chính gây nên tình trạng chảy máu chất xám nghiêm trọng ở TQ là mức thu nhập quá chênh lệch trong và ngoài nước, chế độ đãi ngộ, điều kiện làm việc, điều kiện sống, cản trở thông tin, khó khăn trong hợp tác và giao tiếp quốc tế. Một thực tế đang tồn tại ở TQ là có một khoảng cách khá lớn giữa thu nhập ở khu vực Nhà nước và kinh doanh bên ngoài, cho dù Chính phủ đã có rất nhiều nỗ lực cải cách hệ thống tiền lương. Thông thường ở Bắc Kinh, lương của cán bộ làm Nhà nước trung bình ở mức 600 USD/tháng, chưa kể các khoản phúc lợi khác như bảo hiểm, tiền hỗ trợ thuê nhà, còn ở khu vực kinh doanh là trên dưới 1000 USD/tháng. Vì vậy, chế độ đãi ngộ của CCAP đã mở ra giải pháp mới, xóa đi khoảng cách giữa làm việc trong Nhà nước và ngoài thị trường, giữa làm việc trong nước và làm ở nước ngoài, tạo động lực đưa người TQ giỏi về nước, gắn công nghệ quốc tế với thực tiễn trong nước.
Những người như Huang có rất nhiều trong các Viện nghiên cứu hay các cơ quan hành chính sự nghiệp ở TQ. Sau khi tu nghiệp nước ngoài về họ có hai lựa chọn: Ở lại các viện nghiên cứu hoặc đi làm cho các tổ chức quốc tế. Trong các cơ quan Nhà nước, dưới cơ chế bó buộc và còn nhiều cản trở, năng lực của họ không được phát huy, không đóng góp hiệu quả vào công cuộc phát triển đất nước. Làm cho các tổ chức quốc tế, tuy hưởng đời sống cao nhưng chỉ làm các dự án hay chương trình dưới sự chỉ đạo và ý tưởng của bên ngoài, không đóng góp hiệu quả cho các nhu cầu thiết thân của thực tế, hỗ trợ công cuộc hoạch định chính sách quốc gia. Trong khi nhu cầu nghiên cứu phục vụ phát triển trong nước rất lớn song khả năng đáp ứng lại thiếu và lãng phí. Nếu như thập kỷ 80 chứng kiến sự phá rào của nông dân làm nên sự kiện khoán hộ vĩ đại, mở ra đổi mới của kinh tế Trung Quốc và thập kỷ 90 chứng kiến sự phá rào của tiểu chủ làm nên phong trào công nghiệp hương trấn, những năm đầu của thế kỷ 21 này có lẽ sẽ chứng kiến sự vượt rào mới của đội ngũ nhân tài trẻ, làm nên cuộc cách mạng khoa học công nghệ, đưa Trung Quốc bước vào cửa ngõ của nền kinh tế tri thức.  

Nguồn: Tạp chí Tia sáng số 11, ngày01/06/2006

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.
Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu
Hội thảo “Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu” là diễn đàn trao đổi khoa học và thực tiễn, tập trung đánh giá toàn diện thực trạng, nguyên nhân và mức độ tác động của ngập úng đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách…
VUSTA đón tiếp và làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Quảng Đông (GDAST)
Ngày 16/12, tại Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh đã chủ trì buổi tiếp và làm việc với Đoàn công tác của Hiệp hội Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Đông (GDAST), nhằm trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.
Đổi mới tư duy quy hoạch cải tạo đô thị theo hướng phát triển bền vững
Quá trình đô thị hóa gắn liền với các cuộc cách mạnh công nghiệp. Việc cải tạo đô thị ở các giai đoạn đô thị hóa đều được dẫn dắt bởi các tư tưởng quy hoạch, định hình nên mô hình đô thị sau cải tạo. Tư duy quy hoạch cải tạo đô thị nhấn mạnh sự linh hoạt, đề cao sự phát triển bền vững, bảo tồn di sản và sự tham gia của cộng đồng, chuyển từ mô hình một trung tâm sang mô hình đa trung tâm.