Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 18/12/2006 23:46 (GMT+7)

Tương lai của năng lượng hạt nhân

Đây là một công trình khảo cứu lớn đánh giá triển vọng của năng lượng hạt nhân trong việc đáp ứng nhu cầu năng lượng của nước Mỹ và thế giới trong 50 năm tới đồng thời góp phần hạn chế lám nóng lên toàn cầu.

Với một tập thể nghiên cứu hơn mười nhà khoa học từ nhiều bộ phận khác nhau của Viện Công Nghệ Massachusetts (MIT) và một ban cố vấn hơn mười nhân vật từ nhiều tổ chức của nước Mỹ, công trình khảo cứu rất có uy tín này rõ ràng là đáng được tham khảo đối với tất cả các nhà nghiên cứu và cơ quan quản lý có quan tâm đến vấn đề phát triển điện nguyên tử.

Theo các tác giả của công trình, trong 50 năm tới, trừ khi có một sự thay đổi căn bản, việc sản xuất và sử dụng năng lượng sẽ góp phần vào sự nóng lên toàn cầu do các phát tán khí gây hiệu ứng nhà kính ở qui mô lớn – hàng trăm tỷ tấn cacbon dưới dạng đioxit cacbon. Năng lượng hạt nhân có thể là một sự lựa chọn để giảm bớt các phát tán đó, nhưng hiện nay nó lại đang trong tình trạng đình trệ: theo các dự báo chính thức thì từ nay cho đến năm 2020, công suất điện hạt nhân chỉ tăng 5% (con số này còn đang là một nghi vấn), trong khi sử dụng điện có thể tăng tới 75%. Các chuyên gia của MIT đã phân tích một kịch bản tăng trưởng toàn cầu theo đó công suất điện hạt nhân toàn thế giới từ nay đến năm 2050 sẽ tăng gần 3 lần, lên tới 1000 tỷ oát, và như vậy sẽ giảm được 1.8 tỷ tấn các phát tán cacbon hàng năm từ các nhà máy điện dùng than, tức là giảm khoảng 25% lượng phát tán cacbon gia tăng theo kịch bản “bình thường”. (Công trình không xét những lựa chọn khác để giảm các phát tán cacbon như sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo, thu giữ các phát tán đioxit cacbon ngay tại các nhà máy điện dùng nhiên liệu hoá thạch và thường xuyên cô lập (sequester) cacbon, và tăng hiệu suất sử dụng năng lượng; việc này không có nghĩa các tác giả không coi trọng các lựa chon đó).

Việc mở rộng sử dụng năng lượng hạt nhân hiện đang bị hạn chế bởi bốn vấn đề “tới hạn” sau đây:

* Chi phí: Tổng chi phí cho toàn bộ vòng sống của năng lượng hạt nhân hiện còn cao hơn so với khí thiên nhiên dùng công nghệ tuabin chu trình tổ hợp (CCGT) và than, ít nhất là trong điều kiện chưa đặt ra thuế cacbon hay một cơ chế tương đương để giảm các phát tán cacbon.

* An toàn: Năng lượng hạt nhân đã có những hậu quả tai hại về an toàn, môi trường và sức khoẻ mà đỉnh cao là các sự cố lò phản ứng Three Mile Island năm 1979 và Chernobyl năm 1986; các tai nạn về thiết bị chu trình nhiên liệu ở Mỹ, Nga và Nhật; và ngoài ra là các vấn đề về an toàn và an ninh trong vận chuyển vật liệu hạt nhân trước nạn khủng bố.

* Phổ biến: Năng lượng hạt nhân có những nguy cơ tiềm năng về an ninh, đặc biệt là về khả năng sử dụng các phương tiện hạt nhân đã thương mại hoá vào việc chế tạo vũ khí hạt nhân.

* Chất thải: Việc sử dụng năng lượng hạt nhân còn có những vấn đề chưa được giải quyết về quản lý dài hạn các chất thải phóng xạ. Người ta chờ đợi có những tiến bộ liên tục và đáng kể trong việc giải quyết vấn đề khử bỏ chất thải. Việc vận hành thành công nơi khử bỏ được qui hoạch ở Yucca Mountain ở Mỹ chỉ làm nhẹ chứ không giải quyết được vấn đề chất thải nếu như năng lượng hạt nhân sẽ phát triển đáng kể.

Triển vọng giải quyết các vấn đề trên đây là như thế nào, nếu như năng lượng hạt nhân cho đến giữa thế kỷ này lại được tăng lên đến 3 lần, mà cụ thể theo công trình là sẽ có trên toàn thế giới từ 1000 đến 1500 lò phản ứng 1000 mêgaoat điện mỗi cái so với 366 lò đang hoạt động hiện nay?

Để trả lời câu hỏi này, trước hết cần xem xét một vấn đề bao trùm và lựa chọn chu trình nhiên liệu: dùng nhiên liệu gì, loại lò phản ứng nào sẽ “đốt” nhiên liệu đó, và phương pháp khử bỏ nhiên liệu đã tiêu thụ? Sự lựa chon này sẽ ảnh hưởng đến cả bốn vấn đề then chốt đã nói: chi phí, an toàn, phổ biến nguy cơ, khử bỏ chất thải. Sự phân tích trong công trình đã đi đến kết luận mà theo các tác giả là quan trọng nhất: chu trình nhiên liệu một lần (once- through fuel cycle) (nhiên liệu được sử dụng chỉ trong một chu trình và không có tái chế) phải được ưu tiên hơn chu trình kín đắt hơn có liên quan đến việc tái chế và lò nhiệt tiên tiến hay lò nhanh.

Với sự lựa chọn chu trình nhiên liệu như vậy, các vấn đề đã nêu được kết luận trong công trình như sau:

* Kinh tế năng lượng hạt nhân:Trong những thị trường phi quy chế hoá, có thể giảm khoảng cách về chi phí giữa năng lượng hạt nhân và than, khí nhờ giảm các chi phí vốn, vận hành, quản lý và thời gian xây dựng. Nếu các phát tán cacbon bị đánh thuế (tức là tính đến các chi phí xã hội), năng lượng hạt nhân sẽ có ưu thế.

* An toàn:NHững thiêt kế lò phản ứng hiện đại có thể đạt độ rủi ro rất thấp về các tai nạn nghiêm trọng, song điều cốt yếu phải là thực hành tót nhất (best practices) trong xây dựng và vận hành. Nhưng vượt ra ngoài sự vận hành lò, thì hiểu biết của chúng ta về an toàn còn ít.

* Chất thải:Sự khử bỏ dựa trên các thành tạo địa chất xét về kỹ thuật là khả thi, song việc thực hiện còn phải được trình diễn. Cải tiến chu trình nhiên liệu hở một lần có thể đạt nhiều lợi ích về quản lý chất thải như là các chu trình nhiên liệu kín đắt tiền.

* Phổ biến:Chế độ bảo vệ an toàn quốc tế hiện nay là không thích hợp trước những thách thức về an ninh khi phát triển năng lượng hạt nhân như đã đặt ra (tăng gần 3 lần vào năm 2050). Các hệ thống tái chế hiện đang sử dụng ở châu Âu, Nhật và Nga có những rủi ro về phổ biến không được bảo đảm.

Công trình còn đề cập một số vấn đề khác (thái độ và sự hiểu biết của công chúng; chương trình phân tích, nghiên cứu, triển khai và trình diễn), song ở đây, chúng ta hãy dừng lại ở một số lời khuyên của tác giả về đào tạo và nâng cao trình độ cán bộ và nói riêng đối với các nước đang phát triển:

“Phát triển các nhà quản lý có năng lực và nhận ra những quá trình quản lý có hiệu quả là một yếu tố tới hạn [then chốt] trong việc vận hành nhà máy điện hạt nhân một cách an toàn và kinh tế. Đối với các nước phát triển hiện đang vận hành các nhà máy hạt nhân, nhiệm vụ này đòi hỏi phải chú ý đến việc trẻ hoá toàn bộ lực lượng lao động.

Tuy nhiên, đối với các nước đâng phát triển, thách thức này lớn hơn rất nhiều, vì thiếu lao động về nhiều kĩ năng cần cho việc xây dựng, vận hành và bảo dưỡng điện hạt nhân. Lực lượng lao động phải được đào tạo và phát triển từ một cơ sở nhỏ bé hay không đáng kể. Có hai mô hình chính để thực hiện sự phát triển cần thiết: thứ nhất, “tự làm lấy”, và thứ hai, theo kiểu thương mại về nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ. Mô hình thứ nhất cần có thời gian và có thể có sai lầm trong quá trình học tập. Mô hình thứ hai thì tốn kém về lâu dài và tạo ra được kỹ năng và cung cấp việc làm trong nước. Con đường tốt nhất đối với phần lớn các nước đang phát triển có lẽ là một sợ kết hợp nào đó của hai mô hình để có được vừa là năng lực vừa là việc làm”.

Công trình cũng nói đến Việt Nam trong nhóm các nước kém phát triển (Ấn Độ, Pakixtăng, Inđônêxia, Philippin,...) có dân số dự tính 2,5 tỉ người vào năm 2050 với nhu cầu năng lượng hàng năm mỗi đầu người có thể là 2000- 3000 kWh (điện) và năng lượng hạt nhân có thể chiếm một phần trong cung cấp điện (Ấn Độ là ngoại lệ, hiện họ đã có 14 đơn vị).

Công trình khảo cứu trên đây của MIT, do uy tín của viện nghiên cứu hàng đầu thế giới này, đã được sự chú ý của cộng đồng khoa học, giới công nghiệp và các quan chức chính phủ ở Mỹ cũng như trên thế giới. Tạp chí “Science” số ra ngày 23-1-2004 đã có bài xã luận về công trình này, người được mời viết là Richard A. Meserve, Chủ tịch Viện Carnegie ở Wasington và hiện là chủ tịch Nhóm An toàn Hạt nhân Quốc tế của Cơ quan năng lượng Nguyên tử Quốc tế. Theo tác giả bài xã luận, tát cả các thách thức hiện nay đối với năng lượng hạt nhân (an toàn, khử bỏ chất thải, chống sử dụng công nghệ đã thương mại hoá để làm vũ khí) đều có thể được đáp ứng. Các nhà máy hạt nhân hiện nay thực hiện được an toàn tốt hơn bao giờ hết, các thế hệ lò phản ứng tương lai sẽ có thiết kế cải tiến cho phép tăng cường an toàn hơn nữa. Đối với những ai lo lắng về sự nóng lên toàn cầu thì năng lượng hạt nhân cần được xem là một phần của giải pháp. Ít nhất thì năng lượng hạt nhân cũng phải là công nghệ bắc cầu cho tới khi những lựa chon khác về năng lượng không có cacbon trở thành sẵn sàng hơn.

Công trình nghiên cứu của MIT có thể sẽ tác động đến những suy nghĩ hiện nay về phát triển năng lượng hạt nhân trên thế giới. Nó đáng được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu và quản lý của nước ta hiện đang cân nhắc vấn đề phát triển điện nguyên tử.

Kịch bản tăng trưởng toàn cầu theo đề nghị của MIT

Khu vực

Công suất dự tính cho năm 2050, GWe

Thị phần của điện hạt nhân

2000

2050

Toàn thế giới

1000

17%

19%

Các nước phát triển

625

23%

29%

Mỹ

300

Châu Âu & Canađa

210

Các nước Đông Á phát triển

115

Liên Xô trước đây

50

16%

23%

Các nước đang phát triển

325

2%

11%

Trung Quốc, Ấn Độ, Pakixtăng

200

Inđônêxia, Braxin, Mêhicô

75

Các nước đang phát triển khác

50

Công xuất được dự tính theo kịch bản nhu cầu điện toán thế giới, từ 13.6 nghìn tỉ kWh năm 2000 lên đến 38.7 nghìn tỉ kWh năm 2050 (tăng 2.1%)

Nguồn: Vật lý ngày nay, số 5 tháng 10 – 2004 trang 27

Xem Thêm

Văn hóa đọc là giá trị nền tảng góp phần phát triển con người và xã hội trong kỷ nguyên mới
Trong thời đại của cách mạng công nghiệp 4.0 và toàn cầu hóa, để đất nước vươn mình sánh vai cùng các cường quốc năm châu, không thể thiếu ánh sáng của tri thức, mà trong đó sách đóng vai trò trung tâm. Sách và Văn hoá đọc chính là nền tảng để xây dựng một xã hội học tập, sáng tạo và phát triển bền vững.
Giải pháp nào để phát triển các mô hình NN, thủy sản hiệu quả cao theo hướng an toàn, bền vững tại các tỉnh ĐBSCL?
Đó là những nội dung được các đại biểu đưa ra tại hội thảo khoa học “Giải pháp phát triển các mô hình nông nghiệp, thủy sản hiệu quả cao theo hướng an toàn, bền vững tại các tỉnh ĐBSCL” do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (LHHVN) phối hợp với LHH tinh Kiên Giang và Viện Nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ (Viện IHT) tổ chức ngày 12/4 tại TP Rạch Giá.
Sơn La: Tìm giải pháp quản lý, bảo vệ và sử dụng nguồn nước
Ngày 2/4, Liên hiệp hội tỉnh phối hợp cùng Sở Nông nghiệp và Môi trường tổ chức hội thảo "Thực trạng và giải pháp quản lý, bảo vệ và sử dụng nguồn nước". Sự kiện thu hút sự tham gia của hơn 40 đại biểu đến từ các sở, ban, ngành, doanh nghiệp, trường đại học, cao đẳng và cơ quan truyền thông địa phương.
Huế: Hội nghị về Nội tiết và Đái tháo đường năm 2025
Ngày 29/3, Hội Nội tiết và Đái tháo đường thành phố Huế phối hợp với Hội Nội tiết và Đái tháo đường Việt Nam đã tổ chức hội nghị khoa học Cố đô mở rộng lần thứ 8 về bệnh nội tiết, đái tháo đường, rối loạn chuyển hóa năm 2025.

Tin mới

Thúc đẩy hoạt động đăng bạ kỹ sư chuyên nghiệp ASEAN tại Việt Nam
Sáng ngày 29/4/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thành phố Hải Phòng tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Thúc đẩy công tác đăng bạ kỹ sư chuyên nghiệp tại Việt Nam”. Hội thảo do PGS.TS Phạm Ngọc Linh, Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam và TS. Bùi Thanh Tùng, Chủ tịch Liên hiệp Hội thành phố Hải Phòng đồng chủ trì.
Hà Giang: Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung 06 Luật
Ngày 29/4, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hà Giang (Liên hiệp hội) đã tổ chức hội thảo tư vấn, phản biện (TVPB), góp ý đối với dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật Tư pháp người chưa thành niên, Luật Phá sản, Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quy hoạch.
Phát huy sức mạnh trí tuệ và tâm huyết của trí thức KHCN trong thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị
Nhằm triển khai hiệu quả Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam - LHHVN) xác định phát huy trí tuệ, trách nhiệm và tâm huyết của đội ngũ trí thức là nhiệm vụ trung tâm, tạo động lực để khoa học công nghệ và chuyển đổi số trở thành lực lượng sản xuất chủ đạo thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
An Giang: 30 trí thức KH&CN tiêu biểu được tôn vinh 2025
Chiều ngày 28/4, tại trụ sở Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh An Giang, Hội đồng xét chọn trí thức Khoa học và Công nghệ (KH&CN) tiêu biểu tỉnh năm 2025 đã tổ chức phiên họp chính thức. Đây là lần thứ hai An Giang triển khai hoạt động xét chọn và tôn vinh trí thức KH&CN tiêu biểu.
Quảng Ngãi: Cuộc thi Sáng tạo Robot Quảng Ngãi lần thứ III đã tìm ra nhà vô địch
Sau 2 ngày tranh tài sôi nổi, chiều ngày 27/5, tại Nhà thi đấu IEC Quảng Ngãi, Ban tổ chức Cuộc thi Sáng tạo Robot Quảng Ngãi lần thứ III, năm 2025 đã tổ chức bế mạc, trao 16 giải thưởng cho các đội đoạt giải. Đội CFF đến từ trường THPT Lê Trung Đình đã xuất sắc giành giải Nhất chung cuộc.
Khởi động Chương trình Biểu dương TOP Công nghiệp 4.0 năm 2025
Chương trình Biểu dương TOP Công nghiệp 4.0 nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp ứng dụng, chuyển giao, nghiên cứu và phát triển sản xuất các sản phẩm, nền tảng, giải pháp dựa trên công nghệ số để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, hiện thực hóa các cơ hội, tiềm năng mà chuyển đổi số mang lại khi đưa được công nghệ số vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội, đến từng người dân.
Khai mạc Cuộc thi Sáng tạo Robot Quảng Ngãi lần thứ III
Ngày 26/4, tại Quảng Ngãi, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Quảng Ngãi phối hợp với Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Quảng Ngãi và Tỉnh đoàn tỉnh Quảng Ngãi tổ chức khai mạc và vòng loại Cuộc thi Sáng tạo Robot Quảng Ngãi lần thứ III, năm 2025.
Văn hóa đọc là giá trị nền tảng góp phần phát triển con người và xã hội trong kỷ nguyên mới
Trong thời đại của cách mạng công nghiệp 4.0 và toàn cầu hóa, để đất nước vươn mình sánh vai cùng các cường quốc năm châu, không thể thiếu ánh sáng của tri thức, mà trong đó sách đóng vai trò trung tâm. Sách và Văn hoá đọc chính là nền tảng để xây dựng một xã hội học tập, sáng tạo và phát triển bền vững.