Tư tưởng Hồ Chí Minh về Khoa học và Công nghệ
Trong các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Khoa học và Công nghệ (KH&CN) không được trình bầy như một vấn đề lý luận. Sự thực trong suốt cuộc đời cách mạng của mình, Bác gần như không viết những chuyên luận đồ sộ, mang tính hàn lâm về bất cứ vấn đề nào. Tư tưởng của Người, triết lý của Người đối với mọi vấn đề đều được trình bày bằng những lời nói giản dị, ngắn gọn, hàm súc. Trong khi nhiều trường hợp, ngay cả những câu nói bình dị của Người cũng chứa đựng một hàm lượng triết lý và tư tưởng rất cao.
Dưới đây tôi xin được trình bầy một số suy nghĩ của mình về tư tưởng Hồ Chí Minh đối với KH&CN:
1. Khoa học và Công nghệ là động lực của sự phát triển kinh tế-xã hội
Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước vào lúc công cuộc giải phóng dân tộc đang khủng hoảng sâu sắc về đường lối, tình hình đất nước “đen tối như không có đường ra”
Vượt qua sự hạn chế của các sĩ phu thế hệ cha anh đương thời. Người quyết định chọn hướng đi cho cuộc hành trình tìm chân lý cách mạng là phương Tây, lãnh địa của chủ nghĩa tư bản. Chắc chắn Người đã cảm nhận thấy sức mạnh của Khoa học và kỹ thuật mà các nước tư bản đang nắm trong tay sẽ rất cần cho cuộc cách mạng của Việt Nam. Người thường gắn KH&CN với công nghiệp, nông nghiệp và thủ công nghiệp tức là với sản xuất, với nền kinh tế, bởi vì Người coi khoa học, công nghệ là nguồn lực nội sinh từ thượng tầng kiến trúc tác động đến hạ tầng cơ sở và là hạt nhân của lực lượng sản xuất. Cho nên, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến sự phát triển khoa học, kỹ thuật ngay từ khi đất nước ta còn nghèo nàn, lạc hậu. Người khẳng định rằng, chúng ta chỉ có thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên cơ sở một nền khoa học kỹ thuật tiên tiến và nêu lên một quan điểm mang tính dự báo: “Chủ nghĩa xã hội cộng với khoa học chắc chắn sẽ đưa loài người đến hạnh phúc vô tận”.
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra cho chúng ta một triết lý cơ bản: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bản thân nó là sự nghiệp của KH&CN và sẽ không có công nghiệp hóa, hiện đại hóa nếu không có khoa học tiên tiến và công nghệ hiện đại”.
2. Trọng dụng nhân tài
Do chính sách “ngu dân” và chính sách “cấm phát triển một nền công nghiệp tại thuộc địa Đông Dương” của thực dân Pháp mà cho đến Cách mạng tháng Tám 1945, trong cơ cấu giai cấp xã hội ở nước ta chưa có một đội ngũ trí thức làm khoa học, nhất là khoa học tự nhiên và khoa học công nghệ. Hiểu rõ sự thiếu hụt lực lượng này, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo cán bộ khoa học - kỹ thuật, công nhân lành nghề, bồi dưỡng nhân tài, nâng cao dân trí. Chúng ta không thể quên câu chuyện vào cuối năm 1946, khi hội nghị Fontainebleau thất bại Hồ Chí Minh đã tập hợp được một số trí thức khoa học Việt Nam ở Pháp theo Người về nước để chuẩn bị hạt giống phát triển đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật trong nước phục vụ cho cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc và công cuộc kiến thiết đất nước sau này.
Anh hùng lao động Trần Đại Nghĩa, một trong số trí thức về nước cùng với Người ngày đó, kể lại: Trên đường từ Pháp về nước, Bác nói với chúng tôi: “ở nhà không có gì đâu, nước ta thiếu máy móc, nguyên liệu, thiếu cả thợ lành nghề, tiền của ta lại ít… các chú phải chịu thương, chịu khó làm ăn, đem những cái đã học được ở nước ngoài về áp dụng trong nước cùng làm”. Lời dặn dò của Bác thật giản dị nhưng cảm động biết bao. Chúng ta như nghe thấy ở đó nỗi lo toan của lãnh tụ về một đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật đủ sức đáp ứng những yêu cầu cấp bách của tiền tuyến và niềm tin của Người gửi gắm vào lớp trí thức khoa học tuy còn ít nhưng đầy nhiệt huyết, sẵn sàng cống hiến tất cả sức lực và tài năng của mình cho đất nước.
Theo Hồ Chí Minh, sức mạnh của một dân tộc là sự hiểu biết, là tri thức và trí tuệ. Phải có tri thức và hiểu biết để tự biết mình và biết người. Phải có trí tuệ mới có thể tự lực, tự cường kiến quốc. Người thường nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Người rất chăm lo đến việc tìm kiếm, phát hiện, sử dụng các bậc hiền tài và phát triển nhân tài. Người viết “Kiến thiết phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào, chắc không thiếu người có tài, có đức. E vì chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bậc hiền tài không thể xuất hiện. Khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận”. Người chỉ thị cho các địa phương trong cả nước “Phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước, lợi dân thì phải báo cáo ngay cho chính phủ biết”. Người căn dặn các cấp chính quyền “Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển, càng thêm nhiều”.
Để thực hiện được lời căn dặn trên đây của Người, điều quan trọng và cơ bản hơn hết là phải có tấm lòng thực sự yêu thương và tôn trọng con người. Đối với Hồ Chí Minh, con người không phải là những thực thể trừu tượng, không bản sắc mà là những cá nhân cụ thể với những lợi ích và nhu cầu đa dạng của họ. Người nói: “Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng. Nếu những tính cách, sở trường, đời sống đó không đi ngược lại xu hướng phát triển của xã hội thì cần được tôn trọng”.
Hồ Chí Minh đã nêu lên một tấm gương sáng về sự nâng niu các giá trị làm người, tôn trọng và tin cậy con người, nâng con người lên cao hơn, gọi mở và thúc đẩy con người hướng tới cái thiện và trở nên hoàn thiện. Tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh đã cổ vũ những thế hệ trí thức Việt Nam trong hai cuộc trường kỳ kháng chiến bảo vệ đất nước, trong quá trình xây dựng và phát triển xã hội Việt Nam cho đến ngày nay và chắc chẵn sẽ đến mai sau.
Có thể nói, Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển triết lý sâu sắc của cha ông ta từ xưa: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” [1], “Phi trí bất hưng” [2], “Tìm lẽ trị bình, lấy tuyển nhân tài làm gốc” [3].
Đánh giá cao vai trò của trí thức trong xây dựng và phát triển nền kinh tế-xã hội, Hồ Chí Minh không quên căn dặn, nhắc nhở nghĩa vụ của trí thức đối với dân tộc. Người tóm tắt yêu cầu tu dưỡng của trí thức trong bốn chữ: “Chính tâm” và “Thân dân” [4]. “Chính tâm” là lòng chính trực, là giữ cho lòng dạ trong sáng, kiên trung. “Thân dân” tức là phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết. Người yêu cầu trí thức phải “Gần gũi công nông” và “Công, nông, trí phải đoàn kết chặt chẽ thành một khối”. Người phê phán quan điểm “Vạn ban giai hạ phẩm, duy hữu độc thư cao” [5]mà chế độ thực dân và phong kiến đã đầu độc trí thức “tách trí thức ra ngoài khối công nông”, “chia rẽ lao động trí óc và lao động chân tay”. Thực hiện lời giáo huấn của Người, Hội nghị lần thứ bẩy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã khẳng định mạnh mẽ quan điểm: “Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.
Trong bài nói chuyện với sinh viên năm 1958, Người nhấn mạnh: “Thời đại chúng ta là thời đại vệ tinh nhân tạo, nghĩa là thời đại của khoa học phát triển mạnh, thời đại xã hội chủ nghĩa, thời đại anh hùng… Vậy mong các cháu cũng làm người thanh niên anh hùng trong thời đại anh hùng”. Để có thể thực hiện những lời Người căn dặn đó, trí thức Việt Nam phải có trách nhiệm chính trị rất cao trước thời cuộc, phải có một động lực tinh thần mạnh mẽ, phải có đủ nghị lực và bản lĩnh vượt qua mọi khó khăn thách thức, dành toàn tâm, toàn ý cho sự nghiệp sáng tạo khoa học vì sự hưng thịnh của quốc gia và vinh quang của dân tộc.
3. Đạo đức, nhân cách khoa học
Trên lĩnh vực đạo đức, Hồ Chính Minh đã để lại cho chúng ta nhiều luận điểm quý báu. Bản thân Người lại là tấm gương sáng về đạo đức cách mạng.
Có nhà khoa học Việt Nam cho rằng: “Cái gốc, cái cốt tử trong thiên tài của Bác là đạo đức cách mạng, tất cả cho cách mạng, tất cả cho độc lập của dân tộc, cho tự do của nhân dân, cho hạnh phúc của loài người bị áp bức, thiên tài của Bác được phát huy trên cơ sở những mục tiêu ấy” [6].
Đúng như vậy, nguồn động lực to lớn thúc đẩy Hồ Chí Minh hành động tìm ra chân lý cách mạng, tìm ra con đường cho dân tộc đi tới độc lập, tự do, hạnh phúc và lãnh đạo nhân dân đấu tranh đạt tới mục tiêu đề ra chính là đạo đức của Người, đạo đức một lòng vì dân, vì nước không quản ngại khó khăn gian khổ sẵn sàng chấp nhận mọi sự hy sinh.
Vì thế, tiêu chí đạo đức cách mạng đầu tiên đối với người trí thức khoa học là lòng yêu nước và ý thức tự hào dân tộc. Ngày hôm qua quyết không chịu để nhân dân ta bị làm nô lệ thì ngày nay cũng quyết không để kéo dài tình trạng nghèo khổ của nhân dân, không chịu để nước Việt Nam văn hiến và anh hùng của chúng ta tiếp tục bị xếp vào hạng kém phát triển trên thế giới.
Với nét đặc thù của lao động khoa học thì tiêu chí đạo đức nổi bật là tính trung thực, khiêm tốn trong khoa học và tính tôn trọng thực tế khách quan trong các nội dung khoa học cũng như trong việc xác định phân minh phần bản thân mình đóng góp và phần kế thừa của người khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một mẫu mực về những đức tính này. Người thường nói với chúng ta rằng, nhờ chủ nghĩa Mác-Lênin, nhờ được đọc Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa mà Người đã tìm ra con đường giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho tổ quốc. Người không bao giờ nói đến sự đóng góp của mình vào kho tàng lý luận của học thuyết Mác-Lênin. Chúng ta hiểu đó là sự khiêm tốm của một nhà khoa học lớn. Thực ra, Hồ Chí Minh đã có những cống hiến lý luận rất quan trọng. Từ những năm đầu của thế kỷ XX, Người đã nêu nên luận điểm: Chủ nghĩa đế quốc là một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc, phải đồng thời cắt cả hai vòi của nó đi. Chống lại luận điệu cho rằng sự giải phóng thuộc địa phụ thuộc ở sự thành công của cuộc cách mạng vô sản ở chính quốc, Người nêu lên sự tùy thuộc lẫn nhau giữa hai cuộc cách mạng đó, cách mạng giải phóng thuộc địa có thể nổ ra và thắng lợi trước, tạo điều kiện cho cách mạng vô sản ở chính quốc thành công. Tính khiêm tốn đó của Hồ Chí Minh đã làm tăng thêm ý nghĩa các đóng góp về lý luận của Người. Tinh thần phê phán khoa học cũng là một tiêu chí đạo đức của người trí thức khoa học. Năm 1924, trong một “Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ” gửi Quốc tế Cộng sản, Người đã mạnh dạn phân tích đặc điểm của các nước phương Đông, trong đó có Việt Nam, so với thực tế các nước phương Tây để trên cơ sở đó, đề ra phương hướng vận dụng chủ nghĩa Mác. Người viết: “Dù sao cũng không thể cấm bổ sung “ cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được… Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử Châu Âu. Mà Châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại… Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương đông” [7]. Từ đó, Hồ Chí Minh dũng cảm khẳng định: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước” [8].
Rõ ràng, Hồ Chí Minh đã tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin với tinh thần phê phán khoa học rất nghiêm túc. Chúng ta được biết, Người đã từng dũng cảm bảo vệ chân lý trước những nhận định cứng nhắc của Đại hội VI. Quốc tế cộng sản cho rằng: “Cách mạng Đông Dương phải là một cuộc cách mạng ruộng đất và phản đế”, rằng “không bao giờ được liên minh với tư sản dân tộc và phú nông”. Căn cứ vào tình hình thực tế và những mâu thuẫn trong nước, Người khẳng định: Ở Việt Nam, đấu tranh chống đế quốc nhằm giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu và cần phải đoàn kết rộng rãi mọi giai cấp và mọi tầng lớp nhân dân yêu nước, lấy công nông làm nền tảng do giai cấp công nhân lãnh đạo [9]. Quan điểm này của Hồ Chí Minh không chỉ chứng tỏ khả năng nhận thức, phân tích và tầm khái quát tài tình của Người mà còn thể hiện bản lĩnh khoa học vững vàng của Người trước mọi áp lực. Người đã từng khuyên chúng ta phải noi gương và biết ơn các nhà khoa học đời xưa (như Brunô người Ý, thế kỷ XVI, Côpecnich người Ba Lan, thế kỷ XVI) vì họ đã dũng cảm nghiên cứu những vấn đề mà thời đó không được tầng lớp thống trị cho phép và đã bảo vệ đến cùng phát minh của mình bất chấp mọi sự đàn áp, kể cả nhục hình và giết hại của các thế lực tôn giáo phản động [10]. Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề đoàn kết. Trong bất cứ một công việc gì, lớn hay nhỏ, Người đều nhắc nhở chúng ta phải đoàn kết. Người thường nói: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”, đoàn kết đảm bảo sự thành công. Người đã khái quát thành câu nói nổi tiếng: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công”. Tư tưởng đoàn kết của Hồ Chí Minh đã chỉ ra một yêu cầu đạo đức quan trọng đối với các nhà khoa học và công nghệ là tinh thần đoàn kết, hiệp đồng trong nghiên cứu, sáng tạo. Ngày nay, khoa học không còn là việc riêng lẻ của từng ngành mà là việc của liên ngành. Phải có một tập thể liên ngành đoàn kết, gắn bó, tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng với nhau, bổ sung cho nhau thì mới có thể giải quyết được những vấn đề lớn trong khoa học. Cần phải có ý thức đoàn kết hiệp đồng và chống mọi biểu hiện bản vị, cục bộ gây trở ngại cho việc hoàn thành những nhiệm vụ khoa học và công nghệ có tính liên ngành cao và đòi hỏi một sự tập hợp lực lượng đông đảo.
Trong việc áp dụng các thành tựu khoa học - công nghệ vào sản xuất và đời sống nổi lên hai vấn đề đạo đức lớn: đạo đức kinh doanh và đạo đức bảo vệ môi trường sinh thái.
Đối với sản xuất kinh doanh, Hồ Chí Minh đã không ít lần nhấn mạnh yêu cầu sản xuất “nhanh, nhiều, tốt, rẻ”. Để thực hiện được yêu cầu đó. Người đòi hỏi chúng ta phải có nhiệt tình cách mạng và đạo đức cách mạng. Nội dung đạo đức ở đây là lương tâm nghề nghiệp và ý thức trách nhiệm xã hội của các nhà khoa học - công nghệ và người sản xuất kinh doanh. Các sản phẩm công nghệ đưa ra tiêu dùng phải đảm bảo tính mạng, sức khỏe, an toàn cho người sử dụng không được phép chạy theo lợi nhuận tối đa mà hạ tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, dối trá, làm ẩu, tạo ra hàng xấu, hàng giả. Đó là những hành vi vừa vô đạo đức, vừa phi pháp. Trong kinh doanh không thể chấp nhận quan điểm làm giàu bất chính bằng bất cứ giá nào. Vì vậy, chúng ta phải nghiên cứu xây dựng những nguyên tắc của đạo đức kinh doanh trên cơ sở văn hóa đạo đức và pháp luật mang bản sắc dân tộc Việt Nam, khẳng định những đạo đức đã hình thành trong quá trình cách mạng trước đây, nhất là những quan điểm đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời chấp nhận những nguyên tắc đạo đức mới đang chi phối quá trình phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Nạn ô nhiễm môi trường, nạn cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, nạn phá vỡ cân bằng sinh thái đã vốn có từ trước ở nước ta do chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp và do hậu quả của những năm chiến tranh. Nhưng từ khi bước vào giai đoạn đổi mới đến nay, với cơ chế thị trường kích thích mạnh mẽ lợi ích các chủ thể kinh tế trong khi cơ chế quản lý cùng hệ thống luật pháp chưa thật chặt chẽ, con người với các phương tiện kỹ thuật có được đã khai thác một cách vô tội vạ các tài nguyên thiên nhiên nhằm thỏa mãn nhu cầu vụ lợi của bản thân khiến cho những vẫn đề vốn có trên đây trở nên căng thẳng hơn, bức bách hơn. Đã đến lúc chúng ta phải tìm về tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên để xác định những tiêu chuẩn đạo đức trong lĩnh vực này.
Theo Hồ Chí Minh, mối quan hệ giữa con người và tự nhiên là mối quan hệ hết sức gắn bó, con người và tự nhiên là một chỉnh thể thống nhất tất yếu không thể chia cắt. Người thường ví rằng: “Trời có bốn mùa, người có bốn đức tính, thiên thời - địa lợi - nhân hòa là điều kiện lý tưởng cho sự ổn định, sự phát triển và trường tồn”. Trong tư tưởng của Người, giới tự nhiên không phải chủ yếu là một đối tượng để chinh phục, cải tạo mà là một bộ phận của cuộc sống con người, “Thiên nhiên hợp nhất”. Quan hệ giữa con người và tự nhiên không thể là mối quan hệ giữa người chủ sở hữu và vật bị sở hữu mà phải là mối quan hệ cộng sinh. Con người phải chủ động tạo ra mối hài hòa con người - tự nhiên để đảm bảo sự sống lâu bền. Người nói: “Việt Nam ta có hai tiếng Tổ quốc. Có đất lại có nước thì dân giàu, nước mạnh. Nhiệm vụ của chúng ta là làm cho đất với nước điều hòa với nhau để nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Quan điểm “trồng cây”, “trồng người” và hành vi “trồng cây”, “trồng người” của Hồ Chí Minh là xuất phát từ triết lý nói trên. Cuộc vận động “Tết trồng cây” mà Người phát động từ năm 1959, 13 năm trước Hội nghị quốc tế Helsinki đầu tiên về môi trường là một sáng kiến tuyệt với của một lãnh tụ anh minh. Chúng ta cần vận dụng tư tưởng của Người về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên để xây dựng lương tri sinh thái trong xã hội xem tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường là một tiêu chuẩn đạo đức không được vi phạm, xem lãng phí tài nguyên, khai thác tài nguyên quá mức cần thiết, gây ô nhiễm môi trường sống là những hành vi phi đạo đức cần phải kên án. Trong chuyển giao công nghệ, tuyệt đối không chấp nhận những công nghệ gây ô nhiễm dù có bất kỳ lợi ích nào, vi phạm điều đó là một tội ác không thể tha thứ.
Tìm về triết lý đạo đức của Hồ Chí Minh, chúng ta không thể không nói tới tinh thần bao dung của Người xuất phát từ tình cảm thương nước, thương nhà, thương người, thương mình của văn hóa truyền thống Việt Nam. Hồ Chí Minh thường căn dặn chúng ta: “Năm ngón tay cũng có ngón vắn, ngón dài. Nhưng vắn, dài đều hợp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều là dòng dõi tổ tiên ta… Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối, lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đại đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc sẽ vẻ vang”. Triết lý chi phối thái độ ứng xử do chính Người tự bạch là: Phải có độ lượng vĩ đại thì khi đối xử với người mới có thể chí công vô tư, rằng “sông to, biển rộng thì bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn thì chút nước cũng đầy tràn, vì độ lượng nó hẹp nhỏ”.
Tinh thần bao dung và độ lượng của Hồ Chí Minh đã có sức thu phục nhân tâm, cảm hóa con người. Chính vì vậy, trong những thời kỳ gay go nhất của cách mạng, trong những năm tháng kháng chiến đầy khó khăn, gian khổ, thử thách, các thế hệ trí thức Việt Nam, kể từ lớp trí thức trước Cách mạng tháng Tám, đã đi theo tiếng gọi của Người, đem hết tâm sức, trí tuệ và cả tính mạng, phục vụ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước. Khi nói về đạo đức, Hồ Chí Minh cho rằng: “Đạo đức là cái gốc của con người trong xã hội” và mỗi xã hội phát triển đều phải được xây dựng trên một nền tảng đạo đức tương ứng. Vì vậy, Người đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng một nền đạo đức mới cho dân tộc Việt Nam, đó là đạo đức cách mạng. Người quan niệm, người trí thức cách mạng phải “hồng thắm, chuyên sâu”, phải “có đức, có tài”. Người ví người có tài mà thiếu đức giống như một nhà làm kinh tế giỏi mà lại đi đến thụt két thì tài đó cũng không có ích gì cho nhân dân mà còn có hại nữa. Và ngược lại, nếu có đức mà không có tài thì giống như ông bụt không làm gì, nhưng cũng không lợi gì cho nhân dân. Song trong quan hệ đức - tài, Người nhấn mạnh vai trò của đức: “Đức là cái gốc của người cách mạng”. Như vậy, theo Người, tài năng của người trí thức không phải đem phục vụ cho bất lỳ lợi ích nào mà phải phục vụ cho đất nước, cho nhân dân.
Trong đời sống hàng ngày, Người thường giáo dục chúng ta phải chịu khổ trước và hưởng vui sau nhân dân, không vì cảnh nghèo mà thay lòng đổi dạ, không vì kẻ thù có sức mạnh mà nhu nhược khuất phục.
Là con người luôn luôn tạo cho mình một lối sống giản dị, thích nghi với mọi tầng lớp nhân dân nên Hồ Chí Minh rất xa lạ với nghững gì là viển vông, phiêu lưu, ồn ào, khoa trương. Người đã thấu hiểu rằng: Một dân tộc, một Đảng và một con người ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân.
Đọc lại những di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta càng thấy rõ hơn cuộc đời Người là một biểu tượng sinh động về văn hóa làm người. Đạo đức và nhân cách Hồ Chí Minh cho ta niềm tin sâu sắc rằng, con người lý tưởng (tức là đạt tới các giá trị chân, thiện, mỹ) là con người có thật trong cuộc đời, là hoàn toàn có thể trở thành hiện thực trong cuộc hành trình của loài người đi tới “vương quốc của tự do” để sáng tạo ra lịch sử đích thực của mình. Điều quan trọng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy - là chúng ta phải giữ vững mục tiêu có tính nguyên tắc của cách mạng, đó là điều không được lay chuyển, còn những hình thức và bước đi cụ thể cần được thay đổi cho phù hợp với mỗi hoàn cảnh cụ thể. “Dĩ bất biến ứng vạn biến” là nguyên tắc phương pháp luận nền tảng trong nghệ thuật chính trị của Hồ Chí Minh, là sự khái quát ở trình độ cao, trở thành triết lý hành động và ứng xử của người cách mạng, đủ sức dung nạp mọi tình huống phức tạp, mọi sự biến đổi khôn lường của cuộc sống.
Các nhà khoa học và công nghệ Việt Nam, dưới sự lãnh đọa của Đảng sẽ kiên định đi tới mục tiêu “công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” với hành trang tư tưởng Hồ Chí Minh và cách ứng xử khoa học “Dĩ bất biến ứng vạn biến” của Người.
Tác giả: Đinh Huy Hiến
[1]Văn bia Quốc Tử Giám
[2]Lê Quý Đôn
[3]Quang Trung
[4]Hồ Chí Minh: toàn tập
[5]Mọi nghề đều thấp kém, chỉ có đọc sách là thanh cao
[6]Nguyễn Khánh Toàn: Hồ Chí Minh và văn học, Tạp chí Văn học số 4, năm 1970
[7]Hồ Chí Minh: Toàn tập, T1, Tr.465-466
[8]Hồ Chí Minh: Toàn tập Tr.465-466
[9]Tư liệu lưu trữ tại Viện Lịch sử Đảng
[10]Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập