Đẩy mạnh chọn tạo giống nội địa, khai thác sử dụng nguồn gen nhằm phát triển nông nghiệp bền vững
Ngày 24/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (LHHVN) phối hợp với Hội Giống cây trồng Việt Nam tổ chức hội thảo khoa học “Ứng dụng công nghệ trong sản xuất cây rau và hoa tại Hà Nội”. Hội thảo có sự tham dự của các chuyên gia, nhà khoa học trong lĩnh vực sản xuất cây rau và hoa, các cơ sở nghiên cứu, sản xuất, doanh nghiệp, HTX tại Hà Nội.

Toàn cảnh hội thảo
Phát biểu tại hội thảo, Thạc sỹ Lê Thanh Tùng, Trưởng ban Phổ biến kiến thức LHHVN cho biết, sản xuất hoa ở Hà Nội có vai trò quan trọng trong phát triển nông nghiệp đô thị và bảo đảm an ninh thực phẩm cho một đô thị đặc biệt với gần 9 triệu dân. Việc phát triển các vùng hoa chuyên canh không chỉ giúp đáp ứng nhu cầu tiêu dùng tại chỗ mà còn giảm phụ thuộc vào nguồn cung từ các tỉnh lân cận, nhất là trong bối cảnh đô thị hóa và biến đổi khí hậu.

Thạc sỹ Lê Thanh Tùng, Trưởng ban Phổ biến kiến thức LHHVN phát biểu khai mạc hội thảo
LHHVN với vai trò là cầu nối các hội thành viên, các chuyên gia, các nhà khoa học, đa ngành, đa lĩnh vực, kết nối chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, ứng dụng trong thực tiễn, thời gian qua đã phối hợp chặt chẽ với các hội thành viên tổ chức nhiều hoạt động chuyển giao tiến bộ kỹ thuật trong lĩnh vực nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất cây giống, cây cảnh và rau, hoa. Đây được xem là một trong những hoạt động thiết thực nhằm thúc đẩy phát triển nông nghiệp hàng hóa, nông nghiệp tuần hoàn và hướng tới phát triển bền vững. Thạc sỹ Lê Thanh Tùng cho rằng, chỉ khi có sự phối hợp hiệu quả giữa ba nhà (khoa học, doanh nghiệp và nhà nước) thì các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới thực sự đi vào cuộc sống và mang lại giá trị thực tiễn.
Cần đẩy mạnh chọn tạo giống trong nước
Tại hội thảo, Giáo sư, Viện sỹ Trần Đình Long, Chủ tịch Hội Giống cây trồng Việt Nam cho biết, Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), lượng rau tiêu thụ cần thiết cho mỗi người ít nhất là 120 kg/ năm. Hiện nay có 6 công ty giống hàng đầu thế giới đã có mặt và cung ứng giống rau tại Việt Nam là Monsanto, DuPont ( Hoa Kỳ), Syngenta ( Thụy Sỹ), Bayer Crop Science ( CHLB Đức) và Sakata, Takii ( Nhật Bản). Ngoài ra còn hàng chục công ty của Đài Loan, Trung Quốc, Thái Lan tổ chức sản xuất và cung ứng giống ở nước ta. Một số doanh nghiệp: Vinaseed, Việt Nông, Hạt giống sen vàng, Trang Nông, Tân Lộc Phát… có tham gia chọn tạo, giống và cung ứng giống rau trong nước. Trong số gần 400 công ty đăng ký tại Việt Nam, chỉ có khoảng 5% tham gia nghiên cứu và sản xuất giống.

Giáo sư, Viện sỹ Trần Đình Long, Chủ tịch Hội Giống cây trồng Việt Nam phát biểu tại hội thảo
Việt Nam có tiềm năng lớn trong lĩnh vực rau, hoa, quả. Tuy nhiên, hiện nay trên 80% giống rau được sử dụng trong nước vẫn phụ thuộc nhập khẩu. Để giảm lệ thuộc và chủ động hơn trong sản xuất, Giáo sư Trần Đình Long đề xuất đẩy mạnh chọn tạo giống trong nước, nhất là các giống có khả năng chống chịu sâu bệnh, thích nghi điều kiện và phù hợp với công nghiệp chế biến...
Giáo sư, Tiến sỹ Trần Khắc Thi cho rằng, nhu cầu tiêu thụ rau xanh ngày càng tăng kéo theo yêu cầu về chất lượng giống ngày càng cao. Hiện nay giống rau tại Việt Nam chủ yếu là giống lai F1. Nguyên nhân là do đặc điểm sinh học phức tạp của nhiều loại rau, đặc biệt là các giống có nguồn gốc ôn đới khó ra hoa trong điều kiện khí hậu Việt Nam. Để khắc phục tình trạng này, Giáo sư Trần Khắc Thi đề xuất cần tập trung nghiên cứu chọn tạo giống cho các nhóm cây thuộc họ Cà, họ Bầu bí và họ Đậu đỗ, cũng như phục tráng, cải tiến giống các loại rau bản địa và rau có giá trị dược liệu. Ngoài ra, các hướng nghiên cứu ưu tiên tạo dòng đơn tính cái, giống phục vụ chế biến công nghiệp và chọn tạo giống chống chịu sâu bệnh, phù hợp với điều kiện khí hậu và yêu cầu canh tác an toàn, bền vững...
Tiếp tục tạo đột phá trong phát triển ngành lan
GS.TSKH Trần Duy Quý, Chủ tịch Hiệp hội Sản xuất, kinh doanh hoa lan Việt Nam thông tin, Việt Nam là một trong 16 quốc gia có độ đa dạng sinh học cao nhất thế giới do có khí hậu nhiệt đới ẩm thích hợp cho các loài lan bản địa sinh trưởng.Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu hoa lan hiện chỉ đạt 10-15 triệu USD/năm, chủ yếu dưới dạng cắt cành, còn diện tích trồng lan mới chiếm 10% tổng diện tích hoa.
Mặc dù có nguồn tài nguyên đa dạng như vậy nhưng tốc độ phát triển kinh doanh hoa lan ở nước ta so với các nước phát triển ở châu Âu và châu Á là một khoảng cách rất xa. Lý do chính là thiếu hạ tầng, chi phí đầu tư cao, công nghệ sau thu hoạch còn hạn chế và đặc biệt là chưa có chính sách hỗ trợ phát triển ngành lan một cách bài bản.

Một số giống lan được giới thiệu tại hội thảo

GS Trần Duy Quý đề xuất: Chính phủ nên khuyến khích nông dân chuyển đổi cây trồng có thu nhập thấp sang trồng hoa lan bằng các chính sách hỗ trợ về vốn và công nghệ sản xuất thâm canh, đồng thời cần tăng cường công tác thị trường và năng lực thị trường bằng cách hợp tác giữa khu vực tư nhân và các tổ chức công để quảng bá sản phẩm và thâm nhập thị trường mới; Thu thập, bảo tồn, nhân giống, sản xuất và kinh doanh hoa lan trên toàn quốc để cùng nhau xây dựng và phát triển hoa lan thành ngành sản xuất kinh tế sinh thái mang lại hiệu quả kinh tế cao bền vững.
Khai thác và sử dụng nguồn gen trong chiến lược phát triển nông nghiệp bền vững
Theo ThS. Nguyễn Thị Tâm Phúc, Trung tâm Tài nguyên thực vật, bí đỏ là một cây rau phổ biến trên thế giới, có vai trò kinh tế quan trọng, có giá trị sử dụng cao và thích nghi được với nhiều vùng khí hậu khác nhau trong đó có Việt Nam.
Cây bí đỏ có khả năng thích ứng rộng, sinh trưởng phát triển tốt trong nhiều điều kiện sinh thái, khí hậu khác nhau như vùng ôn đới, cận nhiệt đới và nhiệt đới, có thể trở thành một trong những cây rau chiếm vị trí quan trọng trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng và đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp.
Việt Nam có 54 dân tộc, mỗi cộng đồng dân tộc đều có bộ giống cây trồng riêng để làm vật liệu sản xuất phục vụ cuộc sống. Như vậy với sự đa dạng về các dân tộc sinh sống trong mỗi vùng khác nhau, có thế mạnh canh tác các loại cây trồng khác nhau cùng với những nét đặc trưng về văn hoá tín ngưỡng, ẩm thực cũng đã góp phần tạo nên đa dạng nguồn gen cây trồng nông nghiệp nói chung và cây bí đỏ nói riêng.
Tại Việt Nam, Trung tâm Tài nguyên thực vật - cơ quan đầu mối của Hệ thống quốc gia bảo tồn nguồn gen thực vật nông nghiệp đã có rất nhiều chuyến thu thập nguồn gen trong nước và thực hiện trao đổi nguồn gen với nước ngoài. Hiện tại, Ngân hàng gen cây trồng quốc gia là đơn vị ở Việt Nam đang bảo tồn lưu giữ hơn trên 1.000 mẫu giống bí đỏ thuộc chi Cucurbita được thu thập từ hầu hết các tỉnh thành trong cả nước, bao gồm tất cả các vùng sinh thái nông nghiệp của Việt Nam và một số mẫu giống nhập nội (từ WorldVeg, Columbia và Nhật Bản). Toàn bộ các nguồn gen bí đỏ hiện đang được bảo quản lưu giữ ở ba chế độ ngân hàng gen hạt. Song song với hoạt động lưu giữ bảo quản nguồn gen, việc đánh giá và tư liệu hoá thông tin liên quan nguồn gen có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến hiệu quả của hoạt động khai thác và sử dụng nguồn gen trong chiến lược phát triển nông nghiệp bền vững.
Tại hội thảo, nhiều ý kiến thống nhất cần xây dựng hệ thống kiểm định giống chặt chẽ, quy hoạch vùng sản xuất giống tập trung, và truyền thông nâng cao nhận thức xã hội về giá trị giống nội địa. Các đại biểu cũng đề cập đến nhu cầu cấp thiết phải giảm phụ thuộc vào giống nhập khẩu thông qua đẩy mạnh nghiên cứu, chọn tạo giống rau, hoa, quả trong nước. Bên cạnh đó, các đại biểu nhấn mạnh việc đầu tư công nghệ sau thu hoạch, hoàn thiện quy trình bảo quản hạt giống và xây dựng thương hiệu giống Việt Nam là những hướng đi cần thiết để nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững./.

Đại biểu chụp ảnh lưu niện tại hội thảo