Tiết lộ thú vị về các bộ sử lớn của Việt Nam
Từ những bản biên niên thời Triệu
Từ trước đến nay nhiều người vẫn cho rằng nước ta có sử từ đời Trần (1225 - 1399) và Lê Văn Hưu là người vâng lệnh vua Trần Thái Tông (1225 - 1258) đầu tiên đứng ra biên soạn bộ Đại Việt sử ký. Điều đó có nét đúng, nhưng chưa đầy đủ bởi trước Đại Việt sử ký đã có những bản biên niên ghi chép những việc trọng yếu trong nước.
Từ đời Triệu Đà (207 - 137 TCN) đã có chức nội sử. Trong bức thư của Triệu Đà gửi Hán Văn Đế, có nói đến nội sử Phan, đó là một sử quan đời Triệu. Đến đời Lý (1010 - 1224) đã có những bộ sách về loại hiến chương như Ngọc điệp, Hình thư... chắc chắn đã có sử thần làm việc biên chép những sách ấy. Điều đáng buồn là do biến thiên của thời gian và tản mát sau những cơn binh lửa nên không còn biết rõ sử của nội sử Phan đời Triệu và Ngọc điệp, Hình thư của thời Lý ra sao.
Trước Lê Văn Hưu có ông Trần Tấn, được vua Trần Thái Tông dùng là Tả tàng rồi thăng lên chức Hàn trưởng, có làm Việt chí, nhưng thất truyền, nên cũng không rõ được nội dung. Trong An Nam chí lược, Lê Tắc nói đến Trần Tấn trước rồi mới nói tới Lê Văn Hưu sau (hai sử thần ấy đều là người đồng thời với nhau, cùng sống dưới triều vua Trần Thái Tông). Cũng theo Lê Tắc, công việc của Trần Tấn là khởi đầu làm ra và Lê Văn Hưu là người sửa sang tu chỉnh. Như vậy, Trần Tấn là một sử thần đời Trần đã đứng ra làm Việt chí.
Khi làm bộ Đại Việt sử ký, sử thần Lê Văn Hưu, một đại thủ bút đời Trần, tìm nhặt tài liệu ở các sử cũ và trong mọi sách vở, biên thành 30 quyển. Trên kể từ đời Triệu Vũ Đế, dưới chép đến đời Lý Chiêu Hoàng (từ 207TCN - 1224 SCN).
An Nam chí lược
Lê Tắc soạn An Nam chí lược sau khi phản bội nhà Trần sang hàng nhà Nguyên. Bộ sách An Nam chí lược gồm 20 quyển, mỗi quyển trên dưới 10 tờ. Trong bài tựa của mình, Lê Tắc nói "... khoảng mười năm đã đi khắp nửa phần đất nước, nên đối với sông, núi, đất đai cũng biết rõ được đôi chút... nhân lúc rảnh, chắp nhặt thu thập lại, rồi lượm thêm quốc sử các đời, đồ kinh Giao Chỉ và điển cố ở đời nhất thống ngày nay làm thành bộ An Nam chí lược".
Đại Việt sử ký tục biên
Đại Việt sử ký tục biên do sử thần Phan Phu Tiên chép tiếp từ đời Trần Thái Tông đến lúc Lê Lợi quét sạch giặc Minh (tất cả những diễn biến trong thời gian 203 năm 1225 - 1428).
Đại Việt sử ký toàn thư
Bộ Đại Việt sử ký toàn thư do Ngô Sĩ Liên, người Chúc Ly, huyện Chương Đức, vâng mệnh vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) chép từ thời Hồng Bàng đến thập nhị sứ quân (loạn 12 sứ quân) gọi là ngoại kỷ, từ Đinh Tiên Hoàng (968 - 979) đến Lê Thái Tổ (1428 - 1433) gọi là bản kỷ.
Việt sử thông giám
Bộ Việt sử thông giám do Vũ Quỳnh, người làng Mộ Trạch, Hải Dương vâng mệnh vua Lê Tương Dực (1509 - 1515) cũng theo như Đại Việt sử ký toàn thư chép từ thời Hồng Bàng đến 12 sứ quân là ngoại kỷ và từ Đinh Tiên Hoàng đến năm vua Lê Thái Tổ mới đại định là bản kỷ. Lại chép tiếp từ đó đến đời Thuỵ Khánh, niên hiệu vua Lê Uy Mục (1505 - 1508).
Đại Việt tổng luận
Bộ Đại Việt tổng luận do Lê Tung, đỗ tiến sĩ đời Lê Hồng Đức (1470 - 1497), sử thần thời Lê Tương Dực (1509 - 1515) soạn. Đại Việt tổng luận tóm tắt việc làm của các vua chúa. Bắt đầu từ hai vua nhà Đinh đến 12 đời vua nhà Trần.
Vịnh sử thi tập
Đặng Khiêm, người đời Lê Chiêu Tông (1516 - 1521) vâng mệnh nhà vua làm ra.
Đại Việt sử ký toàn thư
Bộ sử này có 3 phần:
Phần 1 do Phạm Công Trứ soạn từ Lê Thái Tông (1434 - 1442) đến đời Lê Cung Hoàng (1522) gọi là Bản kỷ thực lục, tiếp từ đời Lê Trang Tông (1533 - 1548) đến đời Lê Thần Tông (1619 - 1642) gọi là bản kỷ tục biên.
Phần 2 do Lê Hy soạn tiếp từ đời Lê Huyền Tông (1663 - 1671) đến năm Nguyên Đức thứ 2 đời vua Lê Gia Tông (1672 - 1675) cũng gọi là bản kỷ tục biên.
Phần 3 do Ngô Thời Sĩ biên tập từ đời Lê Hy Tông (1676 - 1704) đến đời Lê Ý Tông (1736 - 1739), gọi là Quốc sử tục biên.
Việt sử tiêu án
Tác giả là Ngô Thời Sĩ, chép từ thời Hồng Bàng đến lúc quân Minh rút khỏi nước ta. Tác giả chọn từng việc nêu lên để bàn xét phân tích.
Lê Triều thông sử
Sử thần Lê Quý Đôn chép từ thời Lê Thái Tổ đến đời Lê Cung Hoàng (1248 - 1522). Lại chép tục biên từ đời Lê Trang Tông đến đời Lê Ý Tông (1533 - 1739).
Lịch triều hiến chương loại chí
Tác giả là Phan Huy Chú. Sách chia ra làm từng loại gồm: Bang giao, Hiến chương, Thư tịch, nhân vật chí, quan chức chí... xếp đặt có phương pháp, khảo cứu rất kỹ càng. Đây là một bộ sử ký rất có giá trị. Chính bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục cũng lấy nhiều tài liệu trong bộ sách này.
Khâm định Việt sử thông giám cương mục
Bộ sử này do Sử quán triều Nguyễn đứng ra biên soạn từ năm Tự Đức thứ 9 (1856) đến năm Kiến Phúc nguyên niên (1884) mới xong. Bộ sách chép từ thời Hồng Bàng đến 12 sứ quân, gọi là tiền biên; từ Đinh Tiên Hoàng đến đời Lê Mẫn Đế gọi là chính biên. Đứng biên tập và duyệt lại có các ông Phan Thanh Giản, Lê Bá Thận, Phạm Thận Duật và Vũ Như...
Việt sử tổng vịnh
Dực Tôn Anh Hoàng đế (vua Tự Đức) soạn. Trong đó chia ra làm 11 loại: Đế vương, hậu phi, tôn thần, hiền thần, trung nghĩa, văn thần, võ tướng, liệt nữ, tiếm nguỵ, gian thần, giai sự, bổ vinh... bắt đầu từ Hùng Vương đến cuối thời Lê Trung Hưng thì hết. Mỗi nhân vật hoặc mỗi đại sự có một tiểu truyện. Tác giả theo quan niệm chép sử của Kinh Xuân Thu, ngụ ý bao biến khuyến trừng bằng vịnh thơ ngợi khen hoặc mỉa mai hoặc rìu búa. Bài tự của tác giả viết ngày 5 tháng 6 năm Tự Đức thứ 27 (1874). Bài biểu của nội các xin đem in bộ Việt sử Tổng vịnh đề ngày 15 tháng giêng năm Tự Đức thứ 30 (1877).
Triều Nguyễn ngoài hai bộ Khâm định Việt sử và Việt sử Tổng vịnh còn có một số cuốn truyện ký cũng thuộc loại lịch sử như: Đại Nam thực lục, Đại Nam chính biên liệt truyện và Đại Nam liệt truyện tiền biên... Ngoài ra, còn có những cuốn sử bằng chữ Hán của những người về sau như Việt sử Tân ước của tác giả Hoàng Đạo Thành, Việt sử kính của tác giả Hoàng Cao Khải; Trung học Việt sử toát yếu của tác giả Ngô Giáp Đậu... Những cuốn sử này là của những nhà sử học cận đại khi chép về các triều đại trước đều tham khảo tài liệu của các bộ sử trên.
Như vậy, chúng ta có 14 bộ sử lớn viết bằng chữ Hán, ngoài những cuốn thời cận hiện đại. Điều đáng tiếc là một số bộ sử đầu đều bị thất lạc không còn trọn vẹn.