
Trên lược đồ này, đáy của hình tam giác là một đoạn thẳng vẽ thành đường cách quãng (------) để lưu ý đến tính chất gián tiếp của vật sở chỉ (khác với quan hệ quy chiếu trực tiếp giữa kí hiệu và nghĩa của nó (tức le signifié - sở biểu - theo thuật ngữ của F. de Saussure). Trong nội dung của bài báo đăng trên Ngôn ngữ và Đời sống có hai điểm ngộ nhận quan trọng sau đây, mà kể từ sau Saussure trở đi không còn có ai phạm phải nữa:
1.Giữa hai ngôn ngữ khác nhau, rất ít khi có sự trùng hợp về nghĩa giữa một từ của ngôn ngữ này với một từ của ngôn ngữ kia.
Một trong những luận đề quan trọng nhất của ngôn ngữ học hiện đại là tính không tương ứng một đối một giữa các đơn vị từ vựng của những ngôn ngữ khác ngau, nếu không kể đến các thuật ngữ chuyên môn đã được quốc tế hoá . Điều này có từ thời cổ đại, nhưng trong lí thuyết Giá trị của Saussure, nó mới được lập thức một cách hiển ngôn.
Cho nên câu phát biểu của tác giả khi ông nói rằng “ý niệm của loài người đối với hiện tượng và sự vật về cơ ản là như nhau “cần được thay bằng câu” cách khái niệm hóa các hiện tượng và sự vật của thế giới khách quan trong mỗi ngôn ngữ khi đặt tên cho chúng rất ít khi giống nhau”.
Trong bất kì cuốn sách vỡ lòng nào về ngôn ngữ ít nhất cũng phải có một vài chương đầu cho biết rằng thế giới khách quan không được chia sẵn ra thành những “sự vật” hay những “đối tượng”. Từ khi có con người và có ngôn ngữ thì các sự vật mới có tên, và chính nhờ những cái tên ấy mà thế giới được khái niệm hóa - nghĩa là được phân ra thành những khái niệm, cho nên không bao giờ có hai ngôn ngữ có một số từ chỉ sự vật giống nhau, nghĩa là cùng biểu thị những khái niệm giống nhau.
Ngay những từ Anh, Pháp, Phần Lan, Nga, Ý, Đức mà tác giả bài báo coi là đồng nghĩa với nhau, cũng không có từ nào đủ dồng nghĩa với nhau để ông có thể, chẳng hạn, dịch ra tiếng Việt thành CÂY được. Ta cứ thử xem những từ ấy có nghĩa gì, và ngoại diên (tức tầm bao quát của mỗi từ ra sao:
T. Pháp :
a. arbre : cây có gỗ ( không phải cây rau, cây chuối, cây sắn)
b. plante: bất cứ cây gì ( kể cả cây có gỗ )
c. bois: 1. gỗ 2.củi 3.rừng
d. forêt: 1.rừng cây
e. jungle: 1. rừng nhiệt đới, trong đó rất ít khi có những cây gỗ lớn.
T. Nga:
f. derevo: 1. cây; 2. gỗ (để đóng bàn ghế hay làm đồ gia dụng)
g. les: 1.rừng cây (có gỗ); 2. gỗ làm giàn giáo để xây nhà
h. dzhungl’a: rừng nhiệt đới (gần đồng nhất với jungle của T.Anh hay T.Pháp).
Ngay trong cùng một ngôn ngữ như tiếng Việt, cách khái niệm hóa của mỗi phương ngữ cũng một khác. Chẳng hạn ở miền Bắc và miền Trung, mũ và nón là hai khái niệm tách bạch, trong khi ở các tỉnh Nam bộ không có khái niệm nón, cho nên các thứ nón và các thứ mũ đều được gọi là nón. Trong các thứ tiếng châu Âu, các thứ mũ và nón đều được gọi tên bằng ba, bốn, năm, sáu, hay bảy từ khác nhau; trong tiếng Pháp, ta có từ chapeau ‘mũ có vành mềm hay nón’; bonnet ‘mũ không có vành’; casque ‘mũ có vành cứng (như mũ của bộ đội ta)’; casquette ‘mũ có lưỡi trai’; kespi ‘mũ có lưỡi trai nhưng có hình trụ thẳng (quân phục Pháp)’; béret ‘mũ nồi’ ; shako ‘mũ kỵ binh’ (để biểu thị ba, bốn, năm, sáu, khái niệm khác nhau) một cách không có lí do rõ ràng, tuy cũng không phải là tùy tiện (thường khác nhau về hình dạng).
2. Nghĩa và vật sở chỉ:
Ở tr. 34, tác giả bài báo ghi trên lược đồ hai chữ sở chỉ ở chỗ mà Saussure dành cho le signifié (cái được biểu thị hay sở biểu - tức là nghĩa hay khái niệm được biểu thị - như ta có thể thấy Saussure ghi rõ ở những trang sau. Và như vậy là tác giả đồng nhất hai khái niệm rất khác nhau nếu hiểu đúng như Saussure quan niệm.
Ở Việt Nam, có khá nhiều tác giả không phân biệt “nghĩa” và “vật sở chỉ”, cho nên những từ cùng chỉ một vật hay một người được họ coi là những “từ đồng nghĩa tạm thời”. Sở dĩ có tình trạng ấy chính là vì những tác giả ấy không hiểu rõ nghĩa của hai chữ quy chiếu và đồng nhất nó với nghĩa của từ. Sự lầm lẫn về thuật ngữ này tạo nên những số “từ đồng nghĩa tạm thời” có thể lên đến hằng hà sa số. Chẳng hạn trong một gia đình gồm khoảng 5, 6 người, những từ như mẹ, anh, chị, em, con, cháu có thể trở thành “từ đồng nghĩa tạm thời”. Tùy ở chỗ người nói là ai, có cương vị nào trong gia đình. Chẳng hạn, từ con có thể có ba bốn người dùng để tự xưng với tư cách ngôi thứ nhất. Nếu kể cách gọi người mẹ ấy trong cửa miệng của những người ngoài gia đình, từ mẹ ấy có thể trở thành “từ đồng nghĩa tạm thời” của vài trăm danh ngữ khác. Thật ra vật sở chỉ của một từ có thể là vô số, còn nghĩa của từ ấy thì chỉ có một. Tình hình này đã được G. Frege nói rõ từ hai thế kỉ trước. Nhà logic học này đã từng lấy tên của Sao Mai và của Sao Hôm làm dẫn chứng cho trường hợp một sở chỉ (hành tinh Venus hay Kim tinh) có hai tên gọi khác nhau nhưng hai tên gọi này không hề đồng nghĩa với nhau và không thể thay thế cho nhau. Vì không phải ai cũng biết hai “ngôi sao” này chỉ là hai trường hợp xuất hiện của cùng một tinh cầu (Kim Tinh), và hai ngữ đoạn định danh sao maivà sao hômthường kèm theo những ý nghĩa liên tưởng (connotations) rất khác nhau - mỗi bên đi đôi với những ấn tượng, những cảm xúc không giống nhau.
Vì vậy bài báo nói trên rơi vào một sự ngộ nhận lẽ ra không nên được lặp lại lần nào nữa. Những bài này tuy không có hại bao nhiêu cho những bạn đọc đã có một vốn tri thức vững vàng, nhưng lại có thể gây hiểu lầm cho giới độc giả chưa có đủ những tri thức cơ bản về ngôn ngữ học.
Nguồn: Ngôn ngữ và Đời sống số 11 (121), 2005, tr 38 - 39