Thuốc từ mật động vật
MẬT LỢN
Ít dùng tươi vì rất đắng, khó uống lại không để được lâu. Mật lợn thường được chế biến như sau: Cắt túi mật, hứng nước mật vào một bát to đã khử khuẩn. Đun cách thủy, khuấy đều cho đến khi nghiêng bát mà mật không chảy là được cao đặc. Hoặc nhỏ từ từ dung dịch no phèn chua vào nước mật đến khi hết kết tủa. Lọc để lấy tủa. Rửa tủa bằng nước cất để loại phèn thừa. Đựng tủa trong một đĩa men, cho vào tủ sấy ở nhiệt độ dưới 70oC đến khi khô. Tán thành bột sẽ được cao khô.
Mật lợn, tên thuốc là (Trư đởm),có vị đắng mùi tanh, tính lạnh, chữa đau bụng, đau dạ dày, ho, ho gà, hen, viêm đại tràng, vàng da, sỏi mật. Dùng cao mật đặc với liều 0,5-2g một ngày. Cao mật khô được bào chế và sử dụng như sau:
- Sirô mật lợn chữa ho gà: Lấy cao mật khô tán mịn, trộn với sirô, tỷ lệ 1ml sirô chứa 2mg cao. Ngày uống 3 lần, mỗi lần nửa thìa cà-phê cho trẻ dưới 1 tuổi; 1-2 tuổi, 1 thìa; 3 tuổi, 1 thìa rưỡi; hơn 3 tuổi, 2 thìa.
Viên mật lợn (trị táo bón)
Bột cao mật lợn khô trộn với tá dược làm thành viên 0,1g. Người lớn mỗi ngày uống 6-12 viên, chia làm 2 lần uống vào sáng sớm và buổi tối trước khi đi ngủ. Nếu táo bón nhiều có thể dùng ngày đầu 20 viên rồi giảm dần. Xí nghiệp dược phẩm 1 đã bào chế viên lô đảm gồm cao mật lợn (0,5g), lô hội (0,08g), phenolphtalein (0,05g) để chữa táo bón, suy gan, nhiễm khuẩn đường ruột. Ngày uống hai lần, mỗi lần 2-4 viên sau bữa ăn.
Viện y học cổ truyền dùng cao mật lợn chữa hen suyễn. Mật lợn uống với hạt vừng đen làm tăng tác dụng nhuận tràng.
Dùng ngoài, nước mật lợn để nguyên hoặc cô đặc phối hợp với hoàng bá, bôi chữa bỏng (Nam dược thần hiệu);Với nghệ vàng hoặc gừng tươi, bôi chữa chốc đầu, nhọt độc; với cao đặc hành tươi, củ tỏi, lá trầu không và lá ớt chữa vết thương phần mềm, bỏng; Với củ sả, hạt muồng trị rắn cắn; Với ít giấm đem thụt vào hậu môn làm thông đại tiện.
MẬT GẤU (HÙNG ĐỞM)
Là vị thuốc quý đứng đầu trong các loại mật động vật, được biết đến cách đây khoảng hơn 1.000 năm ở phương Đông. Tuệ Tĩnh (Namdược thần hiệu)đã dùng mật gấu bôi để chữa trĩ lâu ngày.
Theo kinh nghiệm dân gian, mật gấu chữa viêm tấy, đau nhức, tụ máu bầm tím do ngã hay chấn thương, hoàng đản, mụn nhọt, lở loét. Mỗi lần 0,5g mật gấu khô hòa vào nước ấm, uống ngày 3-4 lần 0,5-1g hòa vào 10ml rượu 450 để xoa bóp (người ta cho rằng chất acid ursodesoxy cholic chỉ có trong mật gấu đã làm giảm sưng đau nhanh và mạnh hơn). Để chữa mắt đau sưng đỏ, mắt có màng mộng, lấy 1-2 g mật gấu khô mài với nước đun sôi để nguội, lọc, dùng nhỏ mắt hàng ngày, tỷ lệ khỏi 76%. Dung dịch nước cất chứa 2-3% mật gấu dùng nhỏ mắt còn làm tan máu nhanh trong 2-3 ngày đối với trường hợp xuất huyết dưới kết mạc do chấn thương hoặc do biến chứng của bệnh sởi, cúm, ho gà. Mật gấu không gây các tác dụng phụ.
Gần đây, mật gấu đã được ứng dụng điều trị bệnh xơ gan có kết quả tốt ở Anh, Pháp, Đức bằng biệt dược Urso của hãng Axcan Pharma ở Mỹ. Một số trường hợp ung thư cũng đã được điều trị bằng uống mật gấu, kết hợp với các phương pháp trị liệu khác như hóa trị liệu, chiếu xạ, phẫu thuật.
MẬT RẮN
Được dùng làm thuốc với tên gọi là Xà đởm.Dược liệu có vị ngọt, cay và đặc biệt không đắng như mật của các động vật khác, có tác dụng chữa ho, đau bụng, đau lưng, nhức đầu kinh niên. Ngày dùng 1-2 cái còn nguyên túi vừa lấy khỏi mình rắn, rồi nút chửng hoặc pha với ít rượu mà uống. Biệt dược “tam xà đởm trần bì” (một loại thuốc cổ điển của Y học phương Đông) gồm mật của 3 loại rắn hổ mang, cạp nong hoặc cạp nia và rắn ráo, phối hợp với trần bì và nhiều vị thuốc khác dùng chữa ho, đau bụng, tiêu chảy rất hiệu nghiệm.
Để chữa viêm đa khớp với triệu chứng đau nhức xương, đỏ ở các khớp xương, đau nhiều về mùa rét, khi đau có sốt nhẹ, có người dùng mật của 3 loại rắn trên ngâm với rượu 200 vừa đủ 25ml, uống trong một ngày chia làm 3 lần. Rượu ngâm mật rắn còn chữa được bệnh hen suyễn mạn tính. Mật rắn biển có vị hơi ngọt, đắng, lại là thuốc chống viêm, an thần, gây ngủ.
MẬT GÀ (KÊ ĐỞM)
Có vị đắng, tính hàn, có tác dụng giảm ho, long đởm, tiêu độc.
Chữa chứng lậu đau buốt: Mật gà trống phơi khô (20g), chất trắng trong phân gà sao vàng (40g). Hai thứ tán nhỏ, rây bột, trộn đều, ngày uống 4g với rượu ( Nam dược thần hiệu).
Chữa hen sữa ở trẻ nhỏ: Mật gà (10 cái), nghệ già (1 củ to bằng quả trứng gà), phèn chua (1 miếng bằng 3 hạt ngô), nghệ gọt vỏ, thái mỏng, phơi khô, sao giòn, giã nhỏ, rây bột mịn; phèn chua rang khô, tán bột. Nước mật gà trộn đều với hai bột trên, rồi luyện với nước cháo làm viên bằng hạt ngô. Ngày uống 10 viên trước khi đi ngủ.
Chữa ho lâu ngày: Mật gà đen (1 cái), hạt chanh (10g), hạt quất (10g), lá thạch xương bồ (10g). Tất cả để tươi, giã nát, thêm đường, hấp cơm, uống làm 2-3 lần trong ngày.
Chữa ho gà, ho khan, ho có đờm kèm sốt: Mật gà (10 cái), hạt chanh (20g), hạt mướp đắng (20g), đường cát (25g). Hạt chanh và hạt mướp đắng đem sao khô, tán nhỏ, rây bột mịn, trộn với nước mật gà, phơi khô, tán lại cho thật mịn. Đường đun cho chảy, luyện với bột trên làm viên bằng hạt đỗ xanh, sấy khô. Trẻ em từ 1 đến 5 tuổi, mỗi lần uống 2-4g; 6-10 tuổi 5-8g. Ngày uống hai lần với nước ấm.
MẬT KỲ ĐÀ
Có vị ngọt, cay, không độc, có tác dụng chữa hen suyễn, động kinh. Một túi mật kỳ đà chia làm 5-7 liều, mỗi ngày uống một liều, dùng trong thời gian dài. Trong trường hợp trẻ bị sài giật, cho uống mật kỳ đà (7g) kết hợp với uống nước ép lá găng trắng và lá tiết dê, dùng bã đắp vào trán. Mật kỳ đà phối hợp với hạt chanh và hạt cau khô, giã nhỏ, hòa với rượu, uống chữa tắc kinh.
Để chữa rắn cắn, lấy mật kỳ đà (7g), mật ong (nửa thìa canh), dịch chanh (3ml), nước đun sôi để nguội (một thìa canh). Tất cả trộn đều, uống làm một lần.
MẬT TRĂN (NHIỄM SÀ ĐỞM)
Có vị đắng, ngọt, tính hàn, hơi độc, dùng riêng mài uống chữa sài giật trẻ em; trộn với dầu vừng, bôi chữa lòi dom. Mật trăn (12g), hạnh nhân (20g, bỏ vỏ và cắt hai đầu), phèn phi (4g). Hai dược liệu tán nhỏ mịn, trộn đều với mật trăn, bôi hàng ngày chữa viêm lợi sưng đau, lở loét có mu (Namdược thần hiệu).Mật trăn phối hợp với mật gấu, huyết lình, nghệ trắng, rễ ô đầu, nhân hạt gấc, tán nhỏ, ngâm rượu dùng xoa bóp chữa bong gân, sai khớp.
MẬT CÁ
Mật cá chép (1 cái) phối hợp với gan gà trống (1 cái) nghiền nát, ngâm với 500ml rượu trắng trong 5-7 ngày, càng lâu càng tốt, thỉnh thoảng lắc đều. Ngày uống hai lần, mỗi lần 30ml, chữa liệt dương. Cũng với công dụng trên, có thể lấy mật cá chép (1 cái), trứng chim sẻ (1 quả), mật gà trống (1 cái), trộn đều, uống làm một lần trong ngày. Mật cá chép và đất lòng bếp (lượng bằng nhau) trộn đều, tán nhỏ nhuyễn, bôi vào cổ chữa trẻ em bị tắc họng, không nuốt được (Namdược thần hiệu).
Mật cá diếc:(1 cái) đốt thành than, tán nhỏ, trộn với dầu vừng, bôi chữa sa dạ con. Mật cá mè rút lấy nước nhỏ tai trị viêm tai có mủ. Ngày làm một lần, độ 2-3 lần là khỏi. Mật cá quả tẩm bông sạch, bôi nhiều lần trong ngày, chữa viêm họng thể nguy cấp.
Chú ý: Không dùng mật cá trắm để chữa bệnh vì liều chữa bệnh rất gần với liều gây độc của cá.
Nguồn: suckhoedoisong.saigonnet.vn








