Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 07/01/2008 15:25 (GMT+7)

Thuốc điều trị tăng huyết áp

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) thì trị số huyết áp tối ưu là 120/80mmHg, trong đó số trên 120 là huyết áp tâm thu, còn số dưới 80 là huyết áp tâm trương. Người bị tăng huyết áp thì trị số huyết áp tâm thu trên huyết áp tâm trương cao hơn 140/90mmHg. Việc sử dụng thuốc để điều trị tăng huyết áp nhằm mục đích đưa trị số huyết áp về dưới 130/85mmHg đối với người ở tuổi trung niên hoặc mắc bệnh đái tháo đường hay là dưới 140/90mmHg đối với người từ 60 tuổi trở lên.

Tùy theo huyết áp đo được, người ta chia tăng huyết áp làm 3 mức độ khác nhau: nhẹ, vừa và cao. Ở giới hạn tăng nhẹ và vừa người ta khuyên nên áp dụng biện pháp luyện tập thể dục, chế độ ăn giảm cân, hạn chế chất béo động vật, giảm muối, bỏ thuốc lá, thư giãn. Nếu huyết áp tâm trương trên 90mmHg thì cần điều trị bằng thuốc, căn cứ này đã mang lại hiệu quả rõ rệt, giảm các tần suất đột quỵ, tai biến mạch máu não, suy tim, phì đại thất trái.

Hiện nay thuốc tăng huyết áp có nhiều loại, chia làm nhiều nhóm khác nhau, tùy theo cơ chế tác dụng của thuốc:

Nhóm thuốc lợi tiểu

Có 3 loại:

Thiazid: Là một trong những thuốc điều trị tăng huyết áp với cơ chế làm giảm thể tích tuần hoàn. Phối hợp với các thuốc ức chế men chuyển, chẹn bêta, chẹn anpha... có tác dụng tốt hơn so với dùng đơn độc. Không dùng thuốc này cho người suy gan, thận và mẫn cảm với thành phần của thuốc. Tác dụng phụ của thuốc là tăng đào thải natri và clorua, giảm thể tích huyết tương, giảm cung lượng tim và dòng máu thận. Đào thải kali tăng lên nhưng lại giảm đào thải canxi và axit uric làm tăng cholesterol toàn phần. Thận trọng với người rối loạn chức năng tim, đái tháo đường, rối loạn lipid, và bệnh gút. Tác dụng phụ còn có thể buồn nôn, đau đầu, tiêu chảy, suy giảm khả năng tình dục...

Thuốc tác dụng lên quai Henlé như bumetamid, furosemid,... ức chế tái hấp thụ natri và clorua ở cuối ống thận và quai Henlé, được dùng cho người giảm chức năng thận, suy tim, hỗ trợ các thuốc duy trì thể tích. Không dùng cho người bệnh não, bệnh gan, mất nước, mất máu, suy thận, tắc đường niệu. Tác dụng phụ là độc tính với tai tăng nếu phối hợp với aminoglycosid, với người suy thận, mất canxi, kali, thuốc có thể gây buồn nôn, ù tai, tiêu chảy, đau đầu, nhìn mờ.

Thuốc lợi tiểu giữ kali: Như amilorid, spironolactam...  ngăn ngừa đào thải kali do các thiazid và lợi tiểu quai, do ức chế cạnh tranh với aldosteron dùng trong điều trị aldosteron tiên phát, suy tim, xơ gan cổ trướng. Không dùng cho người suy thận, suy gan, người mang thai, cho con bú. Thuốc có thể gây buồn nôn, buồn ngủ, tăng kali máu, vú to ở nam giới.

Kiểm tra huyết áp tư thế đứng.
Kiểm tra huyết áp tư thế đứng.
Nhóm thuốc đối kháng canxi:Gồm có nifedipin, nicardipin, amlodipin, felodipin, isradipin, verapamil, diltiazem... Cơ chế tác dụng của thuốclà ngăn chặn không cho ion canxi lọt vào tế bào cơ trơn của các mạch máu, để gây giãn mạch làm hạ huyết áp. Thuốc được sử dụng hữu hiệu đối với bệnh nhân tăng huyết áp có thêm bệnh đau thắt ngực,bệnh nhân cao tuổi, không ảnh hưởng đến chuyển hóa đường, mỡ trong cơ thể. Còn dùng cho bệnh nhân tăng huyết áp nhịp chậm, suy thận, nhưng tránh dùng nifedipin vì làm tăng protein niệu.

Nhóm thuốc chẹn thụ thể anpha:Gồm có prazosin, alfuzosin, terrazosin, phentolamin. Cơ chế tác dụng của thuốc là ức chế việc giải phóng noradrenalin, là chất sinh học làm tăng huyết áp tại đầu dây thần kinh, do đó làm hạ huyết áp.

Thuốc được sử dụng cho bệnh nhân tăng huyết áp đồng thời bị phì đại tuyến tiền liệt.

Nhược điểm của thuốc nhóm này là có tác dụng phụ gây hạ huyết áp thể đứng, đặc biệt khi dùng liều điều trị đầu tiên.

Nhóm thuốc chẹn thụ thể bêta:Gồm có propanolon, pindolol, nadolol, timolol, atenolol, metoprolol, labetolol, acebutolol... Cơ chế tác dụng của thuốc là ức chế thụ thể bêta giao cảm ở tim, mạch ngoại vi, sẽ làm chậm nhịp tim và hạ huyết áp. Thuốc được sử dụng cho bệnh nhân tăng huyết áp kèm thêm đau thắt ngực hoặc đau nửa đầu, cho bệnh nhân tăng huyết áp sau nhồi máu cơ tim, ít dùng để khởi trị ở người già, hợp với bệnh nhân đang trong tình trạng tăng động cường giao cảm, không dùng dài ngày nếu HDL-cholesterol thấp mà tăng triglycerid. Thuốc được chống chỉ định cho bệnh nhân hen suyễn, suy tim, nhịp đập chậm.

Nhóm thuốc ức chế men chuyển (ACE):Gồm có captopril, enalapril, benazepril, lisinopril, perindopril, quinapril, trandopril... với cơ chế ngăn sự chuyển hóa angiotensin I thành angiotensin II, làm giảm sản sinh aldosteron, tăng thải trừ natri và nước, tăng renin và kali hóa.

Thuốc được lựa chọn dùng cho người suy tim, tiểu đường, lipid máu, bệnh lý mạch ngoại vi, tăng tưới máu và sức lọc cầu thận và thay đổi dung lượng tim. Thuốc ít làm thay đổi nồng độ insulin huyết và đường máu. Không dùng cho phụ nữ có thai và cho con bú, tiền sử phù mạch và dị ứng thuốc.

Thuốc có nhiều tác dụng phụ, gây ho tới 30% người dùng, rất khó chịu. Gây phù mạch mặt, đầu chi, môi, lưỡi, thanh quản. Ngoài ra có thể gây chóng mặt, có thể ngất khi dùng liều đầu tiên. Cũng có thể suy thận cấp ở người hẹp động mạch thận, giảm bạch cầu, rối loạn vị giác, protein niệu.

Nhóm thuốc đối kháng thụ thể angiotensin II:Gồm có thuốc losartan, irbesartan, candesartan, valsartan... Cơ chế tác dụng của thuốc có ưu điểm là không trực tiếp ức chế men chuyển ACE mà thay vì ức chế men này (vì sinh tác dụng phụ ho khan) mà chỉ ngăn cản không cho angiotensin II gắn vào thụ thể của nó nằm ở mạch máu, tim, thận để không tăng được huyết áp mà làm hạ huyết áp.

Thuốc có tác dụng tương đương về hạ huyết áp và đưa về huyết áp bình thường, với các thuốc thuộc nhóm đối kháng canxi, nhóm chẹn bêta, nhóm ức chế men chuyển. Đặc biệt là nhóm này, tác dụng hạ tốt huyết áp khi phối hợp với thuốc nhóm lợi tiểu thiazid và không gây ho khan như nhóm thuốc ức chế men chuyển hay gây phù như thuốc nhóm đối kháng canxi. Thuốc này cũng có thể gây chóng mặt, tiêu chảy, nhưng rất hiếm. Không dùng cho phụ nữ có thai hoặc bị dị ứng với thuốc.

Việc dùng thuốc tăng huyết áp rất phức tạp, vì vậy muốn điều trị tốt nhất là phải đi khám bệnh để có điều kiện đo huyết áp theo dõi chính xác, làm các xét nghiệm cần thiết, để chọn lựa, chỉ định thuốc chính xác, hướng dẫn sử dụng đúng bệnh, đúng thuốc vì không ai nắm được bệnh trạng của bệnh nhân, tính năng của thuốc, cách dùng của thuốc bằng bác sĩ.

Tuyệt đối không tùy tiện sử dụng thuốc hạ huyết áp không qua thăm khám và ý kiến của bác sĩ.

Nguồn: Sức khoẻ & Đời sống, 8/12/2007, tr 14

Xem Thêm

Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Ngày 25/6/2025, tại Tp. Huế, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) chủ trì, phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thành phố Huế (Liên hiệp Hội TP. Huế) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức để góp phần tích cực cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023”.
An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Hành trình phát triển văn hóa, ngôn ngữ, giáo dục bền vững của Viện CLEF
Ngày 9/7, Viện Nghiên cứu Phát triển Văn hóa, Ngôn ngữ và Giáo dục (Viện CLEF) đã tổ chức lễ kỷ niệm 5 năm thành lập. Đây là dịp để nhìn lại hành trình hình thành và phát triển của Viện, là lời tri ân sâu sắc gửi tới các đối tác, chuyên gia và cộng đồng học thuật đã luôn đồng hành, hỗ trợ và tiếp sức cho những bước tiến của Viện trong suốt thời gian qua.
Tìm giải pháp thực hiện hiệu quả các dự án viện trợ không hoàn lại
Thủ tục hành chính thực hiện và quản lý các dự án viện trợ không hoàn lại hiện nay còn phức tạp; quy trình xét duyệt, giải ngân còn chậm, ảnh hưởng đến tiến độ và sự hài lòng của đối tác; năng lực quản lý hạn chế; một số đơn vị thành viên thiếu chuyên môn về giám sát tài chính, báo cáo theo chuẩn quốc tế; biến động kinh tế, chính trị toàn cầu khiến nguồn viện trợ không ổn định....
Chủ tịch Phan Xuân Dũng tiếp xúc cử tri tỉnh Khánh Hòa sau kì họp thứ 9, Quốc hội khóa XV
Ngày 9-10/7, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Khánh Hòa gồm ông Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, bà Đàng Thị Mỹ Hương, Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh và ông Nguyễn Văn Thuận đã có các buổi tiếp xúc cử tri tại xã Bác Ái Tây và xã Phước Hà sau kì họp thứ 9, Quốc hội khóa XV.