Sỏi thận bệnh có thể tránh được
Do sự rối loạn trong trao đổi chất khoáng, những gì lẽ ra phải tan lại không tan, mà kết tủa lại, không bị đào thải khỏi cơ thể và tích tụ lại. Từ thành phần của các chất tích tụ này dần dần hình thành ra các hạt cát, sau đó là sỏi. Nếu sự rối loạn trao đổi chất, mà từ đó hình thành ra sỏi, không phải là bẩm sinh, thí nó có thể phát sinh trong cuộc sống, nếu như bạn có chế độ dinh dưỡng không đúng, ít uống nước, uống một số loại thuốc trong một thời gian dài (vitamin D, thuốc canxi, sulphanilamid, ascorbic với liều lượng hơn 4g mỗi ngày…), hay có một loạt bệnh. Kết quả là thành phần hoá học của nước tiểu bị thay đổi: trong đó có sự tăng số lượng các hợp chất làm nước tiểu bị tinh thể hoá.
Nồng độ nước tiểu tăng lên nếu uống ít nước: đôi khi vì bị một bệnh nào đó (ví dụ: bệnh tim), đôi khi vì không thích ứng với nhu cầu (ví dụ, khi người ta uống nước vào trời nóng). Bệnh gút, một số bệnh về máu, việc từ thức ăn có nhiều axit nước tiểu (trước hết từ thịt, gan, cật, cũng như rượu đỏ), nhiều axit axalic (thịt gà, gan, gạo, đậu, ca cao, cà phê, rau cần tây, rau bina, bắp cải, cải củ) thâm nhập vào cơ thể cũng làm tăng khả năng hình thành sỏi. Nước cứng với hàm lượng lớn các muối canxi cũng thúc đẩy việc tạo ra sỏi. Thức ăn cay và chua nâng cao độ axit của nước tiểu, do đó sỏi dễ hình thành hơn. Các quá trình viêm nhiễm trong thận và đường dẫn nước tiểu làm tình trạng sức khoẻ xấu đi, giống như các bệnh mạn tính của dạ dày và ruột.
Thành phần sỏi có thể khác nhau. Cần biết rõ thành phần này để chọn đúng chiến thuật chữa trị, để biết cách lựa chọn thuốc và cách ăn kiêng.
Đa số sỏi là oxalat (từ muối của axit oxalic) và phosphat (từ axit phosphoric), sỏi urat (từ axit uric) ít gặp hơn. Hàm lượng phosphat trong nước tiểu phụ thuộc vào chế độ dinh dưỡng. Hàm lượng này tăng lên khi bị đói, thiết vitamin D, khi tuyến yên hoạt động ở mức độ cao. Thành phần sỏi được xác định theo phân tích nước tiểu.
Bệnh sỏi thận có thể diễn ra một cách âm thầm và thể hiện khi đã có sỏi trong thận. Khi cát hay sỏi bắt đầu di chuyển trong cơ thể, người bệnh bắt đầu đau. Cơ đau có thể bắt đầu ở vùng thắt lưng, sau đó di chuyển xuống bụng, bẹn và đùi. Khi cử động hay thay đổi tư thế thân thể sẽ xuất hiện cơn đau thắt ở vùng eo, đồng thời có thể có rối loạn tiểu, nhiệt độ tăng, khó chịu, buồn nôn, ra mồ hôi lạnh, sình bụng.
Khi sỏi xuống đến phần dưới của đường tiểu, người bệnh hay buồn đi tiểu. Nếu sỏi chặn hết thiết diện trong của đường tiểu, trong thận bắt đầu tích tụ nước tiểu, và điều đó gây ra cơn đau sỏi thận. Khi đó có thể xuất hiện máu trong nước tiểu, thường xảy ra sau khi bị cơn đau mạnh hay lao động nặng. Có khi sỏi tự ra khỏi cơ thể cùng với nước tiểu. Khi thấy những cảm giác khó chịu, dù không năng, ở vùng eo, cần nhanh chóng đến khám ở bác sĩ tiết niệu.
Nghiền nhỏ và cho thải ra
Việc chữa trị có thể theo 2 hướng. Thứ nhất, phá huỷ và cho thải ra ngoài đối với những viên sỏi đã hình thành. Thứ hai, tạo ra các điều kiện để sỏi không hình thành, việc này quan trọng với những ai đã có sỏi, có xu hướng bị tạo sỏi và cần phải phòng ngừa.
Thuốc có thể hoà tan những viên sỏi không lớn, có kích thước không quá 0,5cm. Đôi khi chỉ cần 2-6 tháng cho việc đó là đủ. Thuốc phải do bác sĩ chỉ định, vì việc lựa chọn thuốc tuỳ thuộc vào thành phần sỏi (không phải sỏi nào cũng có thể hòa tan và thải ra ngoài được).
Chế độ ăn uống đối với người bị sỏi thận
Vì phương pháp đa năng và đơn giản nhất để phòng ngừa sự tạo thành sỏi là pha loãng nước tiểu, cần phải uống nhiều hơn. Trong đa số các trường hợp cần uống ở mức độ để mỗi ngày thải ra 2-2,5 lít nước tiểu (song các khuyến cáo này không thích hợp với những người bị bệnh tim mạch, họ cần phải hạn chế sử dụng nước).
Thức ăn cần không quá nhiều và đa dạng. Trong bữa ăn của bạn cần có những hạn chế nào là tuỳ thuộc vào thành phần của sỏi. Nếu là sỏi urat, nghĩa là từ axit uric, cần loại trừ những thực phẩm là nguồn gốc tạo ra trong cơ thể axit uric (với hàm lượng cao các hợp chất purin). Thuộc loại này có nước nấu thịt, giò, hạt đậu, trà đặc, cà phê, sôcôla, ca cao. Cần giảm bớt số lượng protein động vật và rượu. Lượng nước uống hàng ngày cần vào khoảng 2,5-3 lít.
Nếu sỏi thận thuộc loại oxalat (từ muối của axit oxalic), trong khẩu phần ăn cần giảm thức ăn có hàm lượng cao canxi, axit ascorbic và oxalat: sản phẩm sữa, pho mat, sôcôla, rau xanh, trà đặc, đậu phộng… Cũng cần giới hạn bớt muối và mỡ. Những thực phẩm chứa chất xơ là có lợi. Lượng nước sử dụng trong ngày đêm không được dưới 2 lít. Nếu sỏi thuộc loại phosphat, cần giới hạn bớt sữa và sản phẩm sữa, rau, hoa quả. Mức độ sử dụng nước uống trong một ngày đêm cần vào khoảng 2-2,5 lít.
Phòng tránh và điều trị sỏi thận
Vì không phải tất cả các loại sỏi có thể hoà tan và loại ra khỏi cơ thể bằng thuốc, khi bị bệnh sỏi thận không hiếm khi phải can thiệp cấp thời. Trong 10-15 năm gần đây y học tiến bộ nhiều trong lĩnh vực này, và bây giờ hâu như tất cả các loại sỏi, không phục thuộc vào kích thước và thành phần của chúng, có thể lấy ra mà không cần phẫu thuật. Trong việc chữa bệnh sỏi thận bây giờ người ta áp dụng phương pháp mổ nội soi hay dùng thiết bị chuyên dùng để nghiền nhỏ sỏi nằm trong thận và ống tiểu. Sóng điện từ sử dụng trong mục đích này được lựa chọn tần số phù hợp để sóng xuyên qua các mô của cơ thể mà không gây tổn thương, sau đó sóng phá huỷ sỏi thành những hạt nhỏ để chúng được thải ra theo đường tự nhiên.
Việc can thiệp bằng phẫu thuật được tiến hành khi sỏi có hình thù phức tạp kiểu san hô và có số lượng nhiều.
Trên cơ sở khám nghiệm bác sĩ phẫu thuật là người quyết định về việc có cần lấy sỏi ra hay không. Nếu sỏi nhỏ, trong một thời gian dài không to lên và không gây phiền phức cho bạn, có thể không cần động đến chúng trong một thời gian. Nhưng chúng cần được theo dõi thường xuyên. Để làm việc này mỗi năm đều phải soi siêu âm, nộp mẫu máu và nước tiểu để phân tích chung và phân tích sinh hoá, khi cần tiến hành soi rơn-ghen.
Nếu không theo dõi sức khoẻ của mình, xác xuất tái phát bệnh sỏi thận vào khoảng 10-40%. Nếu người nào biết phòng ngừa đúng cách, khả năng tái phát giảm đi ít nhất 3 lần. Bạn cần lưu ý đến chế độ dinh dưỡng của mình, thực hiện các khuyến cáo của bác sĩ trong việc uống thuốc này hay thuốc khác, tránh lao động nặng, cẩn thận với thời tiết lạnh và ẩm ướt.
Nguồn: Khoa học và Đời sống, số 266, ngày 21/5/2005, trang 41-43