Quốc phục
Cả thế giới đều biết đến quốc phục của các nước, thí dụ như cái váy kilt của nam giới xứ Scotland, áo kimono montsuki của giới mày râu Nhật Bản, hoặc áo batik của Indonesia. Thế quốc phục nam giới của nước ta như thế nào? Trong quyển sách Relation de la Nouvelle Mission des Peres de la Compagnie de Jesus au Royaume de la Cochinchine, xuất bản tại Lille năm 1631, Giáo sỹ Crisstoforo Borri đã tả rõ về cách ăn mặc của người Việt ở đầu thế kỷ 17. Theo ông thì đàn ông Việt Nam thời bấy giờ mặc áo giống như trang phục của các giáo sỹ Công giáo dòng Benoit, tức là cái áo dài đen của người Việt bây giờ. Và, “…đàn ông cũng như đàn bà đều để tóc dài và vấn khăn”. Năm 1819, khi thuyền trưởng Mỹ John White đến thăm Sài Gòn, cách ăn mặc ở đây vẫn giống như giáo sỹ Borri đã thấy ở Thuận Quảng từ hơn hai thế kỷ trước đó. Ông White viết khá chi tiết về một thiếu nữ địa phương 16 tuổi mặc quần lụa đen và cái áo may sát người dài đến mắt cá chân. Ông cũng cho biết rằng đàn ông, đàn bà Sài Gòn khi ấy ăn mặc giống nhau, với nhiều lớp áo dài khác màu. Tuy nhiên, giống như bây giờ, lối ăn mặc đỏm dáng kể trên chỉ dành cho tầng lớp phong lưu, thời thượng. Còn phục trang của đại đa số dân chúng thì nghiêm cẩn hơn. Giáo sỹ Borri cho biết phần lớn đàn ông Việt hồi đầu thế kỷ 17, nhất là giới sỹ tử, đều mặc một cái áo dài bằng vải lụa hay lương màu đen phủ ra ngoài các áo khác.
Trong những dịp lễ trọng thì người nước ta khoác thêm ra ngoài áo dài một cái áo lễ may thụng tay, gọi là áo bào, áo cổn ở trong cung; hay áo tấc, áo rộng ngoài hương, phố. Các áo lễ này có cổ chéo, cổ đứng hay cổ tròn tuỳ theo trường hợp. Tay áo lễ được may rất rộng và dài. Khoảng cách giữa hai đầu tay trung bình là hai mét rưỡi. Các loại áo lễ này rất bất tiện, và chỉ được khoác phủ ra ngoài áo dài khi hành lễ. Còn trước và sau lễ, cũng như trong tất cả mọi dịp trang trọng khác, người Việt bao giờ cũng chỉ mặc áo dài. Có thể chắc chắn là áo dài vẫn được người nước ta dùng một cách đa dạng từ lâu lắm rồi. Áo dài nam phái ở nước ta hầu như không thay đổi mấy từ nhiều thế kỷ nay. Trong khi áo dài phụ nữ có thể khi cao khi thấp, đóng mở theo thời gian, thì áo dài đàn ông bao giờ cũng có cổ khép kín với bề cao độ 3,5cm. Gấu áo dài dưới đầu gối khoảng 10cm. Áo dài của một hoàng đế trong cung cũng được may giống y như áo dài của một anh khoá ngoài làng. Có khác chăng là chất lượng và mầu sắc vải. Nhưng trong các dịp thăm viếng mang tính cách nghi lễ thì từ vua đến dân đều chỉ mặc áo dài may bằng các loại vải mầu thâm. Đi cùng với áo dài ở Việt Nam ngày xưa là khăn vấn. Khăn của văn ban ban vấn theo kiểu chữ Nhân và khăn của võ phái vấn kiểu chữ nhất, bao giờ cũng mầu đen trong các lễ lạc có tính cách cộng đồng. Đặc biệt là vua chúa ngày xưa luôn vấn khăn chữ nhất. Từ sau phong trào xoá bỏ búi tóc năm 1927, đàn ông Việt đội lên đầu tóc ngắn của mình một loại khăn đã được vấn sẵn gọi là khăn đóng hay khăn xếp. Từ những năm giữa thập kỷ 1930, nhiều sinh viên, học sinh và các công tử thành thị không đội khăn xếp nữa. Thay vào đó họ để tóc trần chải mượt với dầu brillantine. Nhưng áo dài trắng, đen, hoặc hai lớp trắng đen vẫn luôn phổ biến. Cũng tương tự như thế, ngoại trừ đàn ông Indonesia ngày nay vẫn đội mũ cổ truyền, nam giới ở các nước khác còn giữ được truyền thống dân tộc như Nhật, Hàn Quốc khi mặc quốc phục lúc không hành lễ thường để đầu trần. Cho đến bây giờ, bô lão ở các làng xã khắp nơi trong nước ta vẫn mặc áo dài vào những dịp trọng đại. Họ cũng khoác thêm áo thụng trong lúc tế lễ. Nhưng không ai có thể chối cãi được rằng cái áo dài chính là bộ quốc phục trang trọng, kiêu hãnh đa năng và thông dụng của dân tộc Việt Nam. Nguồn: Xưa và Nay, s ố 253-254, 2/2006, tr 34, 35
|

Cả thế giới đều biết đến quốc phục của các nước, thí dụ như cái váy kilt của nam giới xứ Scotland, áo kimono montsuki của giới mày râu Nhật Bản, hoặc áo batik của Indonesia. Thế quốc phục nam giới của nước ta như thế nào?
Trong những dịp lễ trọng thì người nước ta khoác thêm ra ngoài áo dài một cái áo lễ may thụng tay, gọi là áo bào, áo cổn ở trong cung; hay áo tấc, áo rộng ngoài hương, phố. Các áo lễ này có cổ chéo, cổ đứng hay cổ tròn tuỳ theo trường hợp. Tay áo lễ được may rất rộng và dài. Khoảng cách giữa hai đầu tay trung bình là hai mét rưỡi. Các loại áo lễ này rất bất tiện, và chỉ được khoác phủ ra ngoài áo dài khi hành lễ. Còn trước và sau lễ, cũng như trong tất cả mọi dịp trang trọng khác, người Việt bao giờ cũng chỉ mặc áo dài. Có thể chắc chắn là áo dài vẫn được người nước ta dùng một cách đa dạng từ lâu lắm rồi. 






