Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 08/10/2008 00:55 (GMT+7)

Phồn thực, nữ thần tình dục… những quan niệm dân gian trong ngư dân Nam Trung bộ

Bà Ngứ được mô tả là người đàn bà về mặt nhan sắc không đẹp, thô thiển là đằng khác, bà có vú dài, âm hộ to và đặc biệt là có năng lực tình dục siêu phàm. Tục thờ Bà Ngứ đã từng phổ biến ở Ninh Thuận cũng như vùng ven biển Nam Trung bộ liên quan đến tín niệm phồn thực, tục thờ dâm thần… là loại tín niệm có nguồn gốc rất bác tạp, biểu trưng chính để thờ phục là Yoni (âm hộ) và Linga (dương vật).

Có thể nói, yoni (âm hộ) và linga (dương vật) chính là một phương thức thờ cúng của người Chàm và người Khmer theo đạo Bà la môn. Tín đồ đạo này thờ thần CIVA bằng cách tạo Linga cắm vào bệ Yoni. Tục này phổ biến ở tất cả mọi nơi có tín đồ theo đạo Bà la môn. Nhưng trong dân gian tục thờ cúng này cũng rất phổ biến. Ông Lâm Thanh Tịnh một bậc già làng người Chàm đáng kính ở Ninh Thuận cho chúng tôi biết rằng, trong tín niệm của người Chàm có một vị nữ dâm thần tiếng Chàm gọi là Yang Tàrỉ thường sống lang thang ở những nơi hang sâu cùng cốc, những người đàn ông đi rừng hay bị vị này chòng ghẹo. Vị thần này hay nương mình trong các hòn đá, ngày nay nếu chúng ta có dịp đi vào rừng sâu thấy những hòn đá trên đó được đánh 3 vạch vôi theo hình tam giác (hai mắt một mũi) thì đấy là biểu tượng của vị thần này. Muốn cho bà không trêu ghẹo thì phải mang rượu, trứng đến cúng bà, nhỡ lúc đường sa dặm ngái chưa có lễ vật thì có thể nhặt một số hòn sỏi (tương trưng cho lễ vật) đặt lên trước biểu tượng của bà (hòn đá có 3 vạch vôi) mà khấn vái. Lần khác nếu còn quay trở lại đây, muốn được yên thân thì phải nhớ mang rượu trứng đến cúng bà. Trong kỳ lễ hội vào dịp tháng 2 âm lịch để cúng tai Danok Pô Pia Chhuôi (miếu bà Chhuôi mà dân gian Chăm cho là vợ của Chế Bồng Nga) người kinh trong vùng gọi là miếu bà Đỏ, nằm trên đảo Hòn Đỏ và tại Pô Klăn Pô Bin Nưthuor (dân gian Chăm cho rằng đây là lăng của Chế Bồng Nga) ở dưới chân núi Thuẩn (thuộc Nhơn Hải, Ninh Hải, Ninh Thuận), người Chăm vẫn tổ chức múa Ta mia kayâu thiam likei. Một số người đàn ông, mỗi người kẹp một chiếc linga (trước đây làm bằng gỗ trầm hương, nay làm bằng gỗ thường giống như dương vật sơn đỏ) múa nhảy, làm động tác chọc linga vào những người phụ nữ tham dự lễ (thông thường đàn ông tham dự lễ ngồi về một phía, phụ nữ ngồi về một phía).

Thực ra mà nói, thờ phồn thực là một dạng sinh hoạt tín ngưỡng của dân gian phổ biến ở khắp nơi có nguồn gốc rất phức tạp. Trong cộng đồng người Kinh chẳng hạn tập quán này còn được bảo lưu cho tới nay trong lễ hội ở nhiều làng xã. Thí dụ trong lễ hội ở Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội) vào dịp đầu xuân, trong phần hội có múa Nỏ Nường. Khi các “nam thanh” kẹp những cái “nỏ” giống như linga (dương vật) “chọc” thì các “nữ tú” tung cái “nường” làm bằng mo cau tượng trưng cho yoni (âm hộ) lên hứng. Còn ở Tứ Xã (xã Tứ Xã, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ), trong lễ hội đầu xuân, cũng có điệu múa “ Linh tinh tình phộc” được thực hành còn “rầm rộ” và gợi cảm hơn nhiều… Tại các tộc người ở miền núi phía Bắc dạng sinh hoạt tín ngưỡng này cũng khá phổ biến.

Cổng làng của người Kọ (Akha) ở Bắc Lào Trở lại Tây Nguyên, gần kề với khu vực Nam Trung bộ, tài liệu Dân tộc cho thấy tập tục dạng này còn phổ biến trong đời sống tín ngưỡng của người dân bản địa. Thí dụ theo TS Ngô Văn Doanh (Lễ hội bỏ mã bắc Tây Nguyên, Nxb VHDT, H. 1995) trong lễ hội bỏ mã của người Ba Na, thì đám rước trống (Sơgơr), ngôi nhà thần (Hnam Yang), và những con rối có tên là Bơnăl thể hiện cảnh nam nữ giao hợp, có một vị trí trang trọng và trung tâm.Người Ba Na cho rằng, Bok Sơgơr - thần trống là tổ tiên xưa nhất của loài người. Huyền thoại của người Ba Na kể rằng: đầu tiên vũ trụ là hồng hoang. Tự nhiên sinh ra hai vị thần Bok Kdơl (nam thần) và Ya Konkeh (nữ thần), hai vị thần này đã lập ra vũ trụ rồi lấy nhau và sinh ra được 3 người con, một là nữ thần Ya Pôm ở trên trời, hai người còn lại một trai, một gái xuống đất làm người và được gọi là Ya, Bok (bà, ông), họ là tổ tiên của loài người… trong số con cháu của hai vị tổ có một người hoang dâm vô độ gọi là Bơnăl, một hôm gã dùng bùa mê để ngủ với Bia Phu, con gái của vua Roh, vua tức giận giết chết Bơnăl, Bia Phu không chọn được ai vừa ý, bèn lấy ngựa, rồi thủng bụng mà chết, vua Rơh giết ngựa lấy lòng ăn còn đem da bịt trống đánh chơi, nào ngờ nghe tiếng trống, mọi người từ già chí trẻ đều nổi máu dâm, vua bèn ném trống xuống sông cho trôi mất tích, nhưng trống trôi đến đâu, hễ ai vớt lên đánh là mọi người nghe được lại lao vào những chuyện tình bậy bạ, vì tiếng trống mà con người ngày càng trở nên “xấu xa”, thần Kơidơi tức giận gây nạn hồng thuỷ cho chết hết, chỉ còn hai anh em nhờ thần cho biết trước và khuyên chui vào một cái trống lớn mà thoát chết, sau đó lấy nhau tái sinh ra loài người, vì vậy mà tổ tiên loài người sau nạn hồng thuỷ được gọi là Ya và Bok Sơgơr (ông và bà trống). Ngày nay trong lễ bỏ mả của người Ba Na cứ khi tiếng trống nổi là có một số người đàn ông trang điểm kỳ dị nhảy múa làm các động tác tình dục ngay trước mặt những người phụ nữ tham gia lễ hội.

Cũng theo TS. Ngô Văn Doanh (Nhà mồ và tượng mồ Gia Rai, Bơhnar, Sở VHTT Gia Lai, 1993) thì nhân vật hoang dâm được người Gia Rai kính trọng và tôn thờ là Kroih. Huyền thoại của tộc người này kể rằng: không ai biết cha mẹ của nàng là ai, từ buôn nào tới, chỉ biết người ta thường gọi nàng là Hơ Kroih. Hơ Kroih không đẹp xấu là đằng khác. Nhưng khi còn là con gái, nàng nổi tiếng khắp vùng vì cặp đùi thon tròn lẳn như bắp chuối, trắng ngần như nõn chuối. Không hiểu các bạn gái đồn đại như thế nào mà khắp buôn làng xa gần đều truyền tụng về sự “vĩ đại” khác thường của bẹn và âm hộ của nàng. Hơ Kroih không chỉ xấu mà còn sống rất buông thả, nên các chàng trai đều sợ không dám làm chồng nàng. Chỉ thỉnh thoảng vì mê cặp đùi mà các tù trưởng mới lấy nàng làm vợ. Nhưng Hơ Kroih chỉ sống với các ông chồng của mình một thời gian rất ngắn, rồi lại bỏ đi sống lang thang nay đây mai đó. Chán sống với người, Hơ Kroih bỏ vào rừng sống và làm vợ muông thú. Lúc thì nàng làm vợ chó lúc thì làm vợ hổ, báo… Vì vậy, mà nàng được coi là nữ chúa của muông thú. Tuy xấu và sống buông thả nhưng Hơ Kroih lại rất tốt với con người và đã từng làm nhiều điều tốt cho con người.

Những tộc người khác ở khu vực Trường Sơn - Tây Nguyên cũng có những câu chuyện tương tự như trên. Các nhân vật chính trong cốt truyện đều nổi bật về năng lực sinh dục hay sự sinh thành, có thể nghĩ rằng họ là nữ thần sinh dục hay nữ thần mẹ từ thời nguyên thuỷ; rồi theo thời gian trở thành vị chúa tể của các loài muông thú ở thời kỳ săn bắn; nữ thần phồn thực của xã hội nông nghiệp và anh hùng văn hoá của xã hội nông nghiệp mà ở đó thủ công nghiệp đã ra đời. Bởi thế nên tín niệm và những tập tục sinh hoạt xung quanh vị “nữ thần dâm dục” này rất phức tạp.

Vấn đề là ở khu vực mà chúng ta đang quân tâm, khu vực Nam Trung bộ, trong một số cộng đồng ngư dân, không hiểu loại tín niệm này có gốc gác từ nguồn gốc nào mà các tục thờ cúng vị “dâm thần” này lại phức tạp đến thế. Theo như ông Lê Quang Nghiêm, kể từ khi khai thác đá ở Nam Trung bộ, ngư dân phải làm một “Bộ Đồ” bằng gỗ, giống như dương vật, sơn đỏ, hàng năm họ sơn lại hoặc làm bộ mới. Và lúc nào tại nơi thờ vị dâm thần, cũng phải có vài ba Bộ Đồ để dùng trong việc cúng lễ. Có những nơi, ngư dân dùng một mảnh gỗ chạm trổ hình 3 góc, khoét một lỗ tròn ở chính giữa để tượng trưng cho cái âm hộ. Trước đây, có nơi, ngư dân lấy một cây mây to uốn thành vòng hình thuẩn, sơn đỏ kết tóc vào để làm âm hộ, và có thể còn có một bài viết bằng chữ nho đề là: Dương thị Đĩ nương nương..

Tháng giêng âm lịch khi mới xuống lưới và vào dịp mãn mùa cá, ngư dân lưới đăng cúng là Lường một con gà, ngày xưa họ làm gà quay cúng xong để nguyên lễ vật ở nơi thờ âm hộ. Trong suốt mùa cá lúc nào nơi thờ của cũng được chăm sóc nhang khói rất cẩn thận. Vào những lúc “biển đói”, “cá không chạy”, đích thân chủ nghề phải đưa lễ vật đến nơi thờ cúng bái. Sau khi vái 3 vái ông cầm Bộ Đồ chọ vào 3 cái vào hình yoni. Cho tới nay, tục thờ này vẫn tồn tại ở nhiều nơi với các nghi thức ít nhiều khác nhau.

Có thể nói những quan niệm đem tính phồn thực luôn luôn phổ biến trong dân gian từ thời xa xưa cho tới tận ngày nay; nó tồn tại ở khắp mọi nơi, từ vùng núi đến đồng bằng và cả vùng biển, đảo… Quan niệm phồn thực không chỉ là quan niệm riêng của cư dân nông nghiệp mà còn phổ biến trong mọi nhóm cư dân có các phương thức sống khác nhau…

Nguồn: Dân tộc & Thời đại, số 121, 5 - 2008, tr 1
Cổng làng của người Kọ (Akha) ở Bắc Lào

Xem Thêm

Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Ngày 25/6/2025, tại Tp. Huế, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) chủ trì, phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thành phố Huế (Liên hiệp Hội TP. Huế) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức để góp phần tích cực cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023”.
An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Hành trình phát triển văn hóa, ngôn ngữ, giáo dục bền vững của Viện CLEF
Ngày 9/7, Viện Nghiên cứu Phát triển Văn hóa, Ngôn ngữ và Giáo dục (Viện CLEF) đã tổ chức lễ kỷ niệm 5 năm thành lập. Đây là dịp để nhìn lại hành trình hình thành và phát triển của Viện, là lời tri ân sâu sắc gửi tới các đối tác, chuyên gia và cộng đồng học thuật đã luôn đồng hành, hỗ trợ và tiếp sức cho những bước tiến của Viện trong suốt thời gian qua.
Tìm giải pháp thực hiện hiệu quả các dự án viện trợ không hoàn lại
Thủ tục hành chính thực hiện và quản lý các dự án viện trợ không hoàn lại hiện nay còn phức tạp; quy trình xét duyệt, giải ngân còn chậm, ảnh hưởng đến tiến độ và sự hài lòng của đối tác; năng lực quản lý hạn chế; một số đơn vị thành viên thiếu chuyên môn về giám sát tài chính, báo cáo theo chuẩn quốc tế; biến động kinh tế, chính trị toàn cầu khiến nguồn viện trợ không ổn định....
Chủ tịch Phan Xuân Dũng tiếp xúc cử tri tỉnh Khánh Hòa sau kì họp thứ 9, Quốc hội khóa XV
Ngày 9-10/7, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Khánh Hòa gồm ông Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, bà Đàng Thị Mỹ Hương, Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh và ông Nguyễn Văn Thuận đã có các buổi tiếp xúc cử tri tại xã Bác Ái Tây và xã Phước Hà sau kì họp thứ 9, Quốc hội khóa XV.