Nhân ngày Giỗ Tổ 10-3: Kế nghiệp tổ tiên cùng nhau dựng nước và giữ nước
“Các Vua Hùng có công dựng nước”
Từ xa xưa, trong tâm thức của người dân Việt luôn âm vang một câu ca: “Dù ai đi ngược về xuôi - Nhờ ngày Giỗ Tổ mùng Mười tháng Ba”để nhắc nhở về cội nguồn và đạo lý thuỷ chung phù hợp với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên lâu đời và bền vững của dân tộc Việt Nam .
Đức vua Lê Thái Tổ sau khi đã giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ 20 năm của phương Bắc, khẳng định nền tự chủ và văn hiến Đại Việt đã tuyên ngôn về lòng tự tôn dân tộc bằng nguyên lý: Vật gốc từ Trời, người gốc từ Tổ, ví như nước và cây phải có gốc nguồn… Vì rằng gốc có vượng thì lá mới tốt, nguồn có sâu thì dòng mới dài, nếu không có nhân ân của đời trước bồi đắp dày dặn, phúc trạch đời trước chung đúc lớn lao, thì làm sao lại có thể được như (ngày nay) vậy”(Lời tựa sách Lam Sơn thực lục)
Câu ca dân gian và tư tưởng của người anh hùng dân tộc, người đã được nhà yêu nước Phan Bội Châu tôn làm “vị tổ trung hưng thứ hai của dân tộc Việt Nam ta” (sau đức Ngô Vương Quyền) đã biến những nhân vật huyền thoại và một hệ thống truyền thuyết về một vị thuỷ tổ của dân tộc cùng những thế hệ đặt nền móng cho một quốc gia trở thành một hiện thực gần gũi đối với mỗi người dân, mỗi gia đình, mỗi cộng đồng qua những nghi thức của tập quán thờ cúng tổ tiên.
Bộ sử đầu tiên của nhà Lê đã ghi rõ một quan điểm nhìn nhận về nguồn gốc dân tộc: “Sử để ghi chép việc, mà việc hay hay dở dùng làm gương răn cho đời sau… Nước Đại Việt ta ở phía Nam Ngũ Lĩnh, thế là trời đã chia vạchNamBắc. Thuỷ tổ ta ra tự con cháu Thần Nông thị. Thế là Trời đã sinh ra chân chúa. Vì thế mới cùng Bắc triều đều làm chủ một phương”(Ngô Sĩ Liên - Đại Việt sử ký toàn thư).
Trong “Bình Ngô đại cáo”, Ức Trai Nguyễn Trãi lại khẳng định hùng hồn hơn nữa bằng áng hùng văn rung động lòng người: “Như nước Đại Việt ta thuở trước - Vốn xưng nền văn hiến đã lâu - Bờ cõi, cương vực đã chia - Phong tục Bắc Nam cũng khác…”
Các nhà khoa học đã và đang góp sức tìm tòi, nghiên cứu về tính hiện thực của Hùng Vương và thời đại các vua Hùng để lý giải được một cách xác đáng và thuyết phục lịch sử hình thành dân tộc Việt Nam. Đó cũng chính là nền tảng cho lòng tự hào về một dân tộc có cội nguồn, có bản sắc riêng về văn hoá và có chủ quyền trong mối quan hệ với các cộng đồng - quốc gia lân cận. Thành tựu của các giới khoa học xã hội và nhân văn, đặc biệt là với các cuộc khai quật khảo cổ học, các phát hiện sưu tầm văn học dân gian… càng ngày tri thức về lịch sử quá trình hình thành dân tộc Việt Nam càng hoàn chỉnh và thuyết phục.
Từ những phát hiện dấu tích người vượn ở Thẩm Khuyên (Lạng Sơn), đến di chỉ Núi Đọ (Thanh Hóa), Hang Gòn (Đồng Nai), Dàu Giây (Bình Phước), Tấn Mài (Quảng Ninh)… đã khẳng định sử có mặt của buổi bình minh xuất hiện loài người trên lãnh thổ nước ta hiện tại. Với những phát hiện khảo cổ học, lần lượt các nền văn hoá tiêu biểu cho tiến trình phát triển của xã hội loài người đã khẳng định tính liên tục của sự hình thành cộng đồng cư dân sinh tồn ngay trên lãnh thổ Việt Nam hiện tại qua các thời. Văn hoá Sơn Vi (hậu kỳ đồ đá cũ). Văn hóa Hoà Bình, Bắc Sơn (sơ kỳ đồ đá mới), Văn hoá Phùng Nguyên với dấu ấn đậm nét của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước xuất hiện ở khắp địa bàn đồng bằng và trung du Bắc Bộ, cho đến các Văn hoá Đồng Đậu, Gò Mun (trung và hậu kỳ thời đại đồng thau)… đã phản ánh những bước phát triển của trình độ tổ chức xã hội đủ cơ sở để đi vào thời điểm phát triển rực rỡ của Văn hoá Đông Sơn (thời kỳ đồ sắt), nhà nước Văn Lang gắn liền với thời đại các Vua Hùng đã hình thành, khởi đầu cho sự ra đời của một dân tộc - quốc gia.
Cứ như bộ sách sử xưa nhất còn lại, Việt Sử lược, chép thì vào thời đại tương đương với Trang Vương nhà Chu (Trung Quốc, 696-681 trước CN), xuất hiện người xưng “là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, phong tục thuần hậu… truyền được 18 đời đều gọi là Hùng Vương”.Khảo cổ học còn tiếp tục phát hiện ra những Văn hoá Sa Huỳnh, Oc Eo… ở phương Nam để hoành chỉnh từng bước tri thức về tính bản địa và tính liên tục của tiến trình hình thành dân tộc trên toàn bộ lãnh thổ của nước Việt Nam hiện đại.
Trải suốt thời Lê qua thời Tây Sơn ngắn ngủi, rồi thời Nguyễn đầy thách thức với hoạ xâm lược của thực dân phương Tây, tâm thức về các vua Hùng cùng niềm tự hào về một quốc gia văn hiến tự cường vẫn được các triều đại và nhân dân gìn giữ như một nguồn lực tinh thần to lớn. Triều đình ban sắc phong và nhân dân, đặc biệt ở các làng xã, tôn làm thành hoàng các nhân vật trong hệ thống các truyền thuyết liên quan đến thời các vua Hùng dựng nước; những truyền thuyết dân gian nhằm củng cố nhận thức về nguồn gốc dân tộc (Cha rồng mẹ tiên) truyền thống chống ngoại xâm (Thánh Gióng) truyền thống lao động, đấu tranh với thiên nhiên (Mai An Tiêm, Sơn tinh - Thuỷ tinh, Bánh Chưng - Bánh dày…) đã mãi tạo dựng trong tiềm thức mọi người dân Việt Nam về một thời đại các Vua Hùng dựng nước.
“Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”
Vào thời điểm khẩn trương cho công cuộc vận động giải phóng cứu nước, nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc đã nhắc nhở một nguyên lý quan trọng để tìm thấy sức mạnh của toàn dân cho một cuộc nổi dậy sắp đến: “Dân ta phải biết sử ta- Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”(Diễn ca Lịch sử nước ta).
Vào đêm hôm trước của cuộc Cách mạng tháng Tám 1945, các tổ chức yêu nước và cách mạng trong giới thanh niên và sinh viên Hà Nội đã tập hợp lực lượng bằng một cái lễ Giỗ Tổ Hùng Vương ở Khu Việt Nam học xá. Cách mạng tháng Tám mới thành công, vị Chủ tịch nước Việt Nam độc lập đã yêu cầu Bộ Tuyên truyền ra thông tri cho cả nước tổ chức giỗ Đức Thánh Trần (Hưng Đạo Đại vương). Và trong ngày Giỗ Tổ đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, các nghi thức truyền thống vẫn được duy trì và tổ chức trọng thể ngay tại Thủ đô. Sau đó, cụ Huỳnh Thúc Kháng, quyền Chủ tịch nước, thay mặt Chính phủ đã thân lên Đền Hùng (Phú Thọ) và dâng lên Tổ Tiên tấm bản đồ non sông gấm vóc Việt Nam giờ đây đã trở thành một quốc gia tự chủ và một thanh kiếm để thể hiện ý chí của toàn dân quyết giữ vững nền độc lập non trẻ của Tổ quốc.
Chính vào thời điểm lịch sử đầy thử thách này, lòng tự hào về truyền thống lịch sử đã trở thành một nguồn lực tinh thần mạnh mẽ cho cả dân tộc bước vào sự nghiệp giữ nước. Giáo sư sử học Trần Văn Giàu viết:
“… Vào bất kỳ lúc nào, hễ giặc mạnh xâm phạm biên cương của Tổ quốc thì người chiến đấu bảo vệ non sông đều nhất luật huy động lịch sử nhiều nghìn năm của dân tộc để diệt xâm lăng; trong mục đích thiêng liêng đó các cụ nhiều lần đề cao “gươm núi Sóc”, “cọc Bạch Đằng”. Và mỗi lần như vậy, sự huy động lực lượng lịch sử truyền thống đều mang lại hiệu quả tích cực. Ngay tại Sài Gòn, vào năm 1945, khi chuẩn bị Tổng khởi nghĩa, sau ngày 9-3, đứng trước một tương quan lực lượng đối phương 9-10, bên ta 1-2, mà thời cơ khởi nghĩa có thể thấy trước mắt gần thôi, vấn đề lớn được đặt ra là, trong một thời gian ngắn, rất ngắn, ta phải làm sao cho cán cân tương quan lực lượng thay đổi hẳn ở Sài Gòn, ở Nam Bộ, phải làm sao cho Việt Minh lớn mạnh hơn tất cả các lực lượng đối phương cộng lại, thì mới có thể nắm kịp thời cơ giành chính quyền, làm cách mạng, giải phóng dân tộc thành công. Khi ấy, các đồng chí phát ra nhiều kế hoạch cụ thể mà toàn bộ tư tưởng được gọi một cách “linh ứng” là “Rước ông Gióng vào Nam”(Hội đồng KHXH-TP HCM - Lịch sử VN tập I).
Thực tiễn của công cuộc vận động cách mạng nói chung của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nói riêng đã đúc kết thành một tư tưởng lớn mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện trong lời căn dặn các chiến sĩ Đại đoàn Quân Tiên phong ngay bên thềm Đền Hùng, trước khi vào tiếp quản Hà Nội: “Các Vua Hùng có công dựng nước - Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.Tư tưởng đó cũng là sự tiếp nối một phương thức huy động nguồn lực phấn đầu cho một mục tiêu chính nghĩa, đặc biệt là trong sự nghiệp giữ nước. Sách “Đại Nam quốc sử diễn ca” khi viết về Hai Bà Trưng cũng coi việc Hai Bà “phất cờ nương tử thay quyền tướng quân” là thực hiện sứ mạng “kế nghiệp Vua Hùng”.
Trong cuộc Kháng chiến chống Mỹ cứu nước thực hiện mục tiêu thiêng liêng là thống nhất nước nhà, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã cổ vũ quân dân ta bằng một tinh thần: “bốn ngàn năm lịch sử đang cùng ta đánh Mỹ”. Cũng chính trong những năm tháng kháng chiến gian khổ và thiếu thốn này, công cuộc nghiên cứu khoa học về thời đại Hùng Vương được tiến hành một cách sôi nổi và đạt được những thành tích to lớn. Dưới tầm bom đạn của giặc Mỹ, nhiều cuộc khai quật khảo cổ học được tiến hành, nhiều cuộc hội nghị khoa học toàn quốc họp và khái niệm về một “Thời đại các Vua Hùng dựng nước”cũng được hình thành vào chính giai đoạn lịch sử này.
Và cũng với sức mạnh của truyền thống ấy, sau khi đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, dân tộc Việt Nam tiếp tục sự nghiệp bảo vệ chủ quyền và lãnh thổ toàn vẹn của Tổ quốc. Nghĩa vụ thiêng liêng của muôn đời là gìn giữ trọn vẹn cơ nghiệp của Tổ tiên để lại.
Kế nghiệp người xưa
Kể từ năm Canh Thìn (2000), năm đầu tiên của Thế kỷ XXI, của Thiên niên kỷ thứ ba, vào thời điểm công cuộc Đổi mới đã trải qua một thập kỷ thử thách và đạt được những thành tựu đáng khích lệ, vào trước thềm của Đại hội Đảng lần thứ IX, lần đầu tiên Giỗ Tổ Hùng Vương được tổ chức trọng thể theo nghi thức của Nhà nước (với nghị định số 82, ngày 6/11/2001, Chính phủ quy định Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương là một trong những ngày lễ lớn của dân tộc).
Trước bàn thờ của Tổ tiên trên Đền Hùng, Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh thay mặt Đảng và Nhà nước đã nêu rõ quan điểm của thời đại chúng ta đối với Ngày Giỗ tổ truyền thống:
“Càng tự hào về lịch sử dân tộc, chúng ta càng phải đồng tâm hiệp lực thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Lời dạy của Người đã thấm sâu trong trái tim, khối óc của triệu triệu người ViệtNamchúng ta. Thực hiện lời căn dặn của Người, Đảng ta đã không ngừng phát huy truyền thống của tổ tiên, kế thừa những giá trị tinh thần tốt đẹp của thời đại Hùng Vương và các thời đại oanh liệt trong lịch sử, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành các cuộc đấu tranh cách mạng trường kỳ và oanh liệt, đánh thắng nhiều kẻ thù xâm lược, giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc, bảo vệ vững chắc chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, góp phần làm rạng rỡ thêm lịch sử và truyền thống Việt Nam anh hùng. Trong thời kỳ đổi mới đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, xây dựng một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng ta đang lãnh đạo nhân dân vượt qua mọi trở ngại, thử thách, tranh thủ thời cơ và vận hội để lý tưởng và mục tiêu cao cả của chủ nghĩa xã hội trở thành hiện thực trên Tổ quốc Việt Nam yêu quý của chúng ta…
Chúng ta tưởng nhớ các Vua Hùng và tưởng nhớ công lao to lớn của các thế hệ nối tiếp đã có công dựng nước, giữ nước và mong ước cho trí tuệ, công sức của chúng ta được phụng sự vì mục đích hoà bình và hạnh phúc của nhân dân…”
Năm năm đã trôi qua, hiện thực của công cuộc đổi mới đang làm thay đổi hàng ngày bộ mặt của đất nước đã chứng giám cho những điều mà thế hệ chúng ta đã nguyện hứa trước anh linh của Tổ tiên, cũng là thực hiện đúng những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hiện thực tốt đẹp của nước Việt Nam , cơ đồ của các Vua Hùng gây dựng ngày càng có vị thế xứng đáng trên con đường hội nhập quốc tế. Đồng bào Việt Nam bao gồm 54 dân tộc sống trên mọi miền đất nước cũng như đang sinh sống ở nước ngoài đều có chung một cơ đồ để tận tâm phụng sự cho mục tiêu: dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn mình”.
Hiện thực ấy càng tô đậm thêm ý nghĩa của ngày Giỗ Tổ như cái nghĩa lý mà ông cha ta đã gửi gắm qua đôi câu đối khắc ghi tại Đền Hùng:
“Lăng tẩm tự năm nào, núi Tản, sông Đà non nước vẫn quy về Đất Tổ
Văn minh đương buổi mới, con Hồng, cháu Lạc, giống nòi còn biết nhớ mồ ông”
Nguồn: T/c Xưa và Nay, 4/2005.








