Nguyễn Ái Quốc xuất hiện: Qua hồ sơ lưu trữ của mật vụ Pháp
Mùa hè năm 1919, chính vào lúc nước Pháp vừa kịp hoàn hồn sau bốn năm đánh nhau nhừ tử, cơ quan mật vụ của nó đã phải liên tục gửi điện tín cho cấp dưới ở Hà Nội, ra lệnh truy tìm lai lịch “một nhà sách động cách mạng nguy hiểm”ơ, vừa xuất hiện ở Paris. Được xem là giao thiệp rộng trong cộng đồng đa tạp của người Việt ở đây, gồm từ trí thức đến công nhân và những người Đông Dương bị trưng tập làm lính cho Pháp trong thế chiến, nhân thân của đương sự lại là một ẩn số: có vẻ như không ai biết anh ta là ai, từ đâu tới… Trong khi Tổng nha Mật vụ Pháp, Sureté Generale, sắt đá chờ đợi thông tin từ Đông Dương, Bộ thuộc địa đã quyết định ném các thám tử của mình vào cuộc để khám phá gương mặt mới này của chính trường Pháp.
Đương sự thường ký tên mình là Nguyễn Ái Quốc, tức là “Người yêu nước họ Nguyễn” và chua thêm, “Thay mặt cho Hội những người Việt yêu nước”. Với cung cách xử sự tự tin ít thấy ở một người chưa tới tuổi ba mươi, Nguyễn tới gặp các nghị sĩ Hạ viện Pháp, các phái đoàn tham dự Hoà hội Verseilles, tổng biên tập của các báo Paris mà không hề đăng ký trước. Từ tháng 9-1919, Albert Saraut, toàn quyền Đông Dương mãn nhiệm về làm Bộ trưởng thuộc địa Pháp, đã phải vài lần mời ông Nguyễn Ái Quốc tới diện đàm.
Nhưng điều làm cho chính phủ Pháp bàng hoàng chính là thông điệp của Nguyễn Ái Quốc, mang tên gọi rất chỉnh về nghi thức “ Yêu sách của nhân dân An Nam tới các thành viên của Hội nghị hoà bình”. Hoà nghị này tại Paris là một diễn đàn chính trị thời đó có tới 27 đoàn đại biểu cấp quốc gia tham dự nhằm mở đường cho một trật tự thế giới mới. Cho dù không mấy phái đoàn ngoài khối liên hiệp Pháp biết đích xác Việt Nam nằm ở đâu, đã có nhiều đoàn phúc đáp ngay rằng họ đã nhận được kiến nghị này. Trong số đó, phụ tá của Tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson, Đại tá House, đã gửi một hồi âm rất nhã nhặn tới ông Nguyễn Ái Quốc vào ngày 19/6/1919…
Paris đã xem bản yêu sách là mưu đồ lật đổ. Để chống lại trào lưu đòi quyền dân tộc của Việt Nam dấy lên từ tháng 6/1919, người Pháp lập thêm Cơ quan tình báo chính trị(Service de Renseignement Politique). Những tay chỉ điểm của họ đã thâm nhập giới bạn bè của Nguyễn Ái Quốc, và bám đuôi để bẩm báo về mọi cuộc hội thoại của ông. Họ tịch thu thư từ và các bài báo mà Nguyễn tìm cách gửi về nước…
Mồng 8 tháng 9 năm 1919, một công điện từ Hà Nội đã được gửi đi các tỉnh lỵ, phản ánh rõ quan điểm của Paris.
Nguyễn Ái Quốc, nói rằng mình quê ở tổng Nam Đàn, Nghệ An, từng du học ở Anh nơi anh ta đã sống 10 năm… Hiện Nguyễn đã thay thế Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh trong vai trò điều hành nhóm người yêu nước Việt Nam hoạt động đã lâu năm nhưng không có cơ sở hợp pháp. Xin hãy thông báo các thông tin mà các vị nắm được, hoặc thu thập thêm tin tức về đương sự. (AOM, SPCE 364 no 869 S.G. Ngày 8-9-1919).
Một chỉ điểm của Paris mang mật danh Edouard đưa ra được một manh mối: tên thật của Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn Văn Thành (gần như cái tên ông Nguyễn Sinh Sắc đặt cho con trai thứ khi anh này qua ngưỡng thành niên: Nguyễn Tất Thành). Tuy nhiên các thông tin tiếp theo của Edouard lại phản tác dụng, hẳn là do Ái Quốc cố tình tung ra. Tỷ như, Quốc sinh ra ở Đà Nẵng, hiện sống bằng chu cấp của song thân giàu có, những điều rõ ràng là sai bét. Kể từ tháng 12/1919, người Pháp đã đặt một trạm quan sát thường trực ở số 6 đường Gobelins (Villa des Gobelins), một ngôi nhà yên tĩnh nằm trong ngõ cụt ở đông nam thành Paris. Nơi đây, ngoài người xưng tên là Nguyễn Ái Quốc còn có luật sư Phan Văn Trường, người đã bị giam thời đầu thế chiến với tội danh điều phối hoạt động nổi loạn ở Đông Dương, và nhà nho bị lưu đày Phan Châu Trinh. Phan Châu Trinh cũng bị xem là có tư tưởng chống đối, cộng thêm nghi án về liên hệ với người Đức, vì thế từng bị giam một thời ở Cherche-Midi… Còn luật gia họ Phan được xem là thành phần “cừu gia tử đệ”, và người Pháp cũng rất ngại trí tuệ của ông. Ông Trường từng có mấy bận công cán sang Anh quốc vào năm 1913 để gặp một vị mang tên Joseph Thanh, sứ giả của Hoàng thân Cường Để ( AOM, SLOTFORM III, 29, Gouvernement Militaire de Paris, Verbal d’Interrogatoire, pièce 56, trang 4). Cần lưu ý rằng đây cũng chính là thời gian Nguyễn Tất Thành sống ở Anh. Trong cuốn Tiểu sử Hồ Chí Minh(Paris, Chi Hội Liên Việt tại Pháp xuất bản năm 1949, trang 24) Trần Ngọc Danh kể rằng thời còn ở Anh, ông ta và Hồ Chí Minh đã tham gia tổ chức bí mật “Hội Lao động hải ngoại”…
Sang sống ở Paris từ năm 1911, Phan Châu Trinh đã dành những năm đầu ở Paris vận động ân xá cho các đồng chí của mình còn bị giam ở Côn Đảo. Cuốn Tổng kết cuộc nổi dậy của nông dân miền Trungtố cáo người Pháp đàn áp dã man cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908 của ông đã được sĩ quan Pháp Jules Roux, một đảng viên xã hội tiến bộ từng can thiệp để Phan được ân xá trước đó, dịch sang tiếng Pháp. Người Pháp ngại Phan Châu Trinh sẽ gây ảnh hưởng trong số hơn bốn chục sinh viên Việt Nam học ở Paris trước chiến tranh, và hi vọng ông sẽ không dính líu với các phần tử cải lương châu Á thường tụ hội ở xóm Latin, nhưng không ngăn cản được. Vào năm 1912 ông và Phan Văn Trường lập ra một câu lạc bộ người Việt, sinh hoạt trong các quán cà phê và quán ăn ở Montparnasse, với các chủ đề xoay quanh phận tha hương. Hy Mã luôn cố chứng tỏ rằng mình đứng ngoài các âm mưu chống Pháp của nhóm Phan Bội Châu-Cường Để: ông từng đem nộp một bức thư của vị hoàng thân này gửi cho ông lên Bộ thuộc địa vào năm 1913 ( AOM, SLOTFORM III, 29. Declaration de Cao Dac Minh, 22 tháng 5 năm 1915, trang 5). Tuy nhiên, như người thông ngôn cho Phan Châu Trinh thú nhận, vào năm 1915 cụ Phan đã từng nhận tiền của chính phủ Phổ do hai sứ thần của Cường Để là Trương Duy Toản và Đỗ Văn Y mang tới ( AOM, SLOTFORM 111, Procès-verbal de Interrogatoire de Nguyen Như Chuyen, trang 3). Trương Duy Toản khi còn ở Việt Nam là biên tập của tờ báo dân tộc chủ nghĩa ôn hoà Lục tỉnh tân văn. Còn Đỗ Văn Y, vốn là một giáo viên ở Mỹ Tho, sau khi từ Anh sang Pháp năm 1914, đã thường xuyên thư từ với Josep Thanh ở Anh. Người Pháp chộp được ít nhất bốn bức thư không đề ngày tháng của Josep Thanh viết cho Văn Y vào năm 1914, hai trong số đó gửi từ phố Gower ( AOM, SLOTFORM III.29. Gouvernement Militaire de Paris. Traduction d’Extrait de lettres et de carte-lettes). Hai thư kia, một gửi từ Constantine Road ở Hampstead, Luân Đôn, một từ số 3 Conquest Road, Belford.. Bị người Pháp, hối thúc điều tra, Bộ Nội vụ Anh đã báo sang Paris rằng Josep Thanh và Tất Thành là hai anh em, riêng Tất Thành sống và học tập ở Belford. Cả hai đã nhập trường Regent Street Politechnic, nơi họ làm quen với Gourd, một sinh viên người Anh mà song thân sống ỏ số 12 đường Constantine Road. Vẫn theo văn bản điều tra này của Anh, Tất Thành kết bạn với cô con gái nhà Gourd, điều đã khiến bà Gourd giúp Thành vào học việc ở Công ty điện Igranic ở Belford. “Không có cơ sở nào trong hành vi của họ cho phép suy luận rằng hai người này đã dính líu vào những mưu đồ bất hảo”, người Anh kết luận. Sau này mật vụ Pháp biết rằng Joseph Thanh, hay Lâm Văn Tú, đã về Nam Kỳ ( AOM, SPCE 364, Paris, Note 2157, note fournie par M. Pettete de la S.G. 19 tháng 11 năm 1919), nơi đương sự viết báo, rồi cộng tác với Nguyễn An Ninh trong phong trào Cao vọng thanh niên. Vì không có được lưới chỉ điểm người Việt như hệ thống sau này được người Pháp dàn dựng, Bộ Nội vụ Anh đã không thể xác định chính sách nhân thân hai người Việt này, cũng như những gì họ đã làm…
Viên thông ngôn của cụ Phan còn khai thêm rằng, vì có được một cuộc nổi dậy xảy ra trước đó ở Việt Nam như đã đặt hàng, người Đức gửi nốt tiền trả công qua lãnh sự của họ ở Trung Hoa. Người ta lấy làm hoài nghi rằng liệu một vị chỉ biết nói suông và viết chữ Nho như Phan Tây Hồ lại có thể chủ mưu cuộc nổi dậy.
Bản chất của viện Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh dính líu vào các âm mưu chống Pháp cho tới nay vẫn khá mập mờ. Việc giam giữ hai ông này đã kết thúc trong tình trạng miễn tố (non-lieu), vì chỉ điểm viên đột nhiên cấm khẩu. Sau khi được tha khỏi nhà tù ChercheMidi ở trung tâm Paris, khoản trợ cấp của Chính phủ Pháp trước đó cho Phan Chu Trinh đã bị cắt, và nhà Nho này đã phải hành nghề sửa ảnh. Sự truy bức, hành hạ của cảnh sát Pháp để lại một ấn tượng chua chát trong ông về thiện chí của nhà cầm quyền mẫu quốc. Phan Văn Trường từng bị gọi vào quân ngũ làm phiên dịch ở kho quân giới Toulouse, sau chiến tranh giải ngũ về tiếp tục hành nghề luật sư. Khác với Phan Châu Trinh, trong mắt mật vụ Pháp Phan Văn Trường luôn là một tay cực đoan về chính trị. Lưu trữ cho thấy Nguyễn Ái Quốc và Phan Văn Trường thường chia sẻ quan điểm, và đã tìm mọi cách giữ liên hệ với nhau mãi về sau.
Phan Văn Trường cũng là người đã chịu trách nhiệm về văn bản tiếng Pháp của Yêu sách của nhân dân Việt Namvà góp phần đáng kể trong soạn thảo các bài báo và phát ngôn tiếng Pháp trên phương tiên thông tin đại chúng, vì Nguyễn Ái Quốc tới lúc đó còn chưa thạo việc thảo văn bản tiếng Pháp. Nhưng chính Nguyễn Ái Quốc mới là người đứng mũi chịu sào chiến dịch đòi quyền dân tộc cho Việt Nam, khởi động tháng 6 năm 1919. Người trẻ tuổi này đã thể hiện năng lực tập hợp lực lượng chính trị trong cộng đồng người Việt, thông qua một loạt thư ngỏ và tuyên ngôn.
Gần đây, bàn về vị thế của Nguyễn và hai đồng sự vong niên họ Phan trong Hội những người Việt yêu nước tại Paris, một số tác gia ngoài nước đã vụng về sắp lại bảng phân vai để kết luận rằng Nguyễn Ái Quốc thực ra chỉ đóng vai giao dịch và dẫn chương trình cho hai ông bầu lão luyện kia. Nhưng lưu trữ của mật vụ lại chỉ rõ “… Vì Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh từng có án tích, Quốc nay đã nhận vai cầm đầu” (AOM, SPCE 364, báo cáo của Jean, mồng 3 tháng 11 năm 1919).
Sở mật vụ Pháp tiếp tục vẽ chân dung của con người bí hiểm Nguyễn Ái Quốc. Viên tổng giám sát binh lính Đông Dương tại Pháp Pierre Guesde khẳng định rằng Nguyễn Ái Quốc đã trở thành nhà hoạt động chính trị tầm cỡ ở vào ngưỡng cửa năm 1919. Các tình tiết mà tai mắt của Guesde dày công thu thập về Quốc cho thấy đương sự là một chiến sĩ tận tuỵ trong cuộc đấu tranh cho dân quyền của người Việt, lĩnh vực mà sự nhạy bén về chính trị của nhân vật chưa đầy ba chục tuổi đời này đã lấp đi chỗ trống do thiếu bằng cấp. Hồ sơ còn cho thấy Quốc thường xuyên giao du với các phần tử dân tộc chủ nghĩa Ái Nhĩ Lan, Trung Hoa và Triều Tiên, những người đã tới Paris để vận động hành lang tại Hoà hội Varsailles. Các cuộc nói chuyện của Quốc với đồng hương Việt Nam cho thấy đương sự có được một nhận thức thấu đáo về cục diện đất nước mình, cho dù còn bị ảnh hưởng của Phan Châu Trinh chi phối… Lập trường của Phan Châu Trinh, người thường chỉ trích cách manh động của Phan Bội Châu, được Nguyễn Ái Quốc thừa kế có chọn lọc, chẳng hạn như vấn đề hiện đại hoá giáo dục và mở mang kinh tế. Còn phương châm của Phan Châu Trinh trong vấn đề nhân quyền là đòi hỏi người Pháp một cách “hoà nhã, nhưng kiên quyết nhẫn nại” thì chỉ ít lâu sau Nguyễn Ái Quốc sẽ phải xếp vào ngăn kéo… Tháng giêng năm 1920, một vị có quan hệ với nhóm Phan Bội Châu-Cường Để, nhưng chính là mật thám Jean, báo cáo rằng Nguyễn Ái Quốc trước khi tới Paris đã nghiên cứu kỹ lưỡng chính sách thuộc địa của Mỹ, Anh, Tây Ban Nha, Ý. Quan hệ của gia đình Nguyễn Sinh Sắc với Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh đã tạo tiền đề cho sự nghiệp của Nguyễn Ái Quốc.
Còn một quan hệ nữa giúp Nguyễn Ái Quốc tích luỹ kinh nghiệm chính trường, đó là đoàn đại biểu Triều Tiên tại Hoà hội Versaille. Người trẻ tuổi họ Nguyễn xem ra đã lĩnh hội được nhiều ý tưởng của phong trào đấu tranh giành độc lập cho Triều Tiên (AOM, SPCE 364, báo cáo của Jean, mồng 1 tháng Giêng 1920). Hiệp hội dân tộc chủ nghĩa Triều Tiên tại Mỹ đã khởi động phong trào đòi độc lập của họ vào lúc Tổng thống Woodrow Wilson công bố 14 luận điểm vào tháng Giêng 1918. Kiến nghị đòi Nhật Bản trao trả độc lập cho Triều Tiên đã được đệ lên hôm 12 tháng 5 năm 1919, non một tháng trước khi Bản yêu sách của Việt Nam được công bố.
Tháng 9 năm 1919, tờ Yishibaocủa Trung Hoa đăng tải cuộc phỏng vấn Nguyễn Ái Quốc ở Paris, cho hay ông Nguyễn đã trao đổi ý kiến với đoàn Triều Tiên trong một chuyến đi sang Hoa Kỳ. Tác giả bài báo, một phóng viên Mỹ, đã làm quen với Nguyễn Ái Quốc thông qua hai viên chức của chính phủ lâm thời Triều Tiên, viết rằng ông Nguyễn Ái Quốc, trạc ba mươi tuổi, biết ba ngoại ngữ: Anh, Pháp, Trung và là đại biểu cho Việt Nam tại Hoà hội Versailles. Người được phỏng vấn tuyên bố rằng việc công bố Yêu sách của nhân dân An Namlà phần đầu của một chiến dịch quảng bá rầm rộ, chứ không chỉ nhằm tiếp cận Hội nghị Versailles rằng “Ngoài những yêu sách đã được phát hành tới các thành viên của Nghị viện Pháp, tôi đang cố gắng tập hợp sự ủng hộ ở mọi nơi. Đảng xã hội đã thể hiện sự bất bình với việc làm của Chính phủ Pháp và đang hết sức hỗ trợ chúng tôi. Ấy là nói riêng nước Pháp. Trào lưu của chúng tôi còn có ảnh hưởng ở nhiều nước khác, và Hoa Kỳ chính là nơi mà các nỗ lực của chúng tôi đạt kết quả cao nhất…”.
Riêng chuyến đi Mỹ vào khoảng 1917-1918 của Nguyễn Tất Thành để hội kiến với đoàn Triều Tiên tới nay vẫn còn là uẩn khúc. Năm 1938 Nguyễn Ái Quốc từng khai lý lịch với Quốc tế cộng sản là ông ta đã làm thuê cho một gia đình giàu có ở Broklyn, Hoa Kỳ trong hai năm 1917-1918, sang Pháp năm 1919. Nhưng tài liệu này lại có chỗ không chính xác: Nguyễn viết rằng ông sinh năm 1903, và thân mẫu của ông mất năm 1910. Phải chăng Nguyễn Ái Quốc đã trùm lên sự thật một tấm áo nguỵ trang làm từ những điều không thực? Thêm nữa, căn cứ vào một bài báo trên tờ Liberationsố tháng 10/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bảo với chiến sĩ hoà bình Mỹ David Dellinger rằng, khi còn ở Mỹ, ông đã nghe Marcus Garvey, lãnh tụ của phong trào “hồi hương về Phi châu”, diễn thuyết ở khu Harlem. Garvey, lãnh tụ phong trào của người Mỹ gốc Phi cho tới năm 1916 mới từ quê hương Jamaica sang Hoa Kỳ, để thường xuyên đăng đàn tố cáo nạn phân biệt chủng tộc trong hai năm 1917 và 1918 tại khu Harlem. Điều này tăng thêm sức thuyết phục của việc cảnh sát Paris khẳng định rằng Nguyễn Tất Thành từ Luân Đôn tới Paris mồng 7-6-1919, trước tiên số nhà 10 phố Stokholm, sau chuyển đến số nhà 56 phố M. le Prince, rồi chuyển về số 6 Gobelins ( AOM, SPCE 364 envole 49/SR, 12/3/1920).
… Hoà đàm Verseilles kết thúc vào tháng 1/1920 với sự khai tạo Hội Quốc Liên. Nguyễn Ái Quốc và đồng hương đã không thể ăn mừng: trong họ đã tắt đi niềm hy vọng rằng các thể chế dân chủ phương Tây sẽ chấp thuận kiến nghị đòi độc lập cho người Việt. Sự đoàn kết trong nhóm người Việt cùng chí hướng có phần thương hại. Tiền nong cũng cạn kiệt, làm cho những người sống trong căn hộ tại nhà số 6 Gobelins gồm Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Khánh Ký, Nguyễn Ái Quốc đều phải lo mưu cầu sinh nhai. Người Pháp hay tin họ đều đã mắc bệnh viên phế quản mãn hoặc ho lao. “Họ đã không thể có các phương tiện để sống khoẻ mạnh, không phải lo nghĩ”, vì thế khó mà đe doạ nổi an ninh xứ Đông Dương, Edouard, ngoài đời là Phủ Bảy, nhận định.
Nhưng Nguyễn vẫn cố gắng phản ánh ước vọng tự do của người Việt tại một cuộc mít tinh về tiến trình lập lại hoà bình ở phương Đông, nơi lãnh đạo Đảng xã hội Pháp, đại diện trí thức Paris và của đại biểu cộng đồng người Hoa và Triều Tiên lên phát biểu. Ở đây, Nguyễn đã phân phát bản Yêu sách của nhân dân An Nam, và đòi quyền được diễn thuyết nhưng chủ toạ cuộc mít tinh từ chối. Pierre Arnoux, thanh tra mật thám trà trộn trong đám khoảng ngàn thính giả, chủ yếu là người Hoa, đã viết báo cáo, khoái trá một cách thiển cận “… Việc Nguyễn Ái Quốc khăng khăng tìm cách giành diễn đàn đã gây nên những phản ứng trái ngược trong cử toạ: người cảm thông, người giễu cợt” ( AOM, SPCE 364, 9/1/1920). Ngay sau đó Nguyễn sẽ tự tổ chức một cuộc mít tinh, thay mặt Nhóm những người cách mạng Việt Nam đọc bài phát biểu bằng tiếng Pháp Sự tiến hoá về xã hội của các dân tộc Viễn Đông và các yêu sách của dân tộc An Namvốn có nguồn gốc cổ đại đã được cử toạ hoan nghênh nhiệt liệt ( AOM, SPCE 364, báo cáo của Jean, 16/1/1920). Nhưng sự vắng mặt của những người đồng hương đã làm Nguyễn không còn đủ nhiệt thành để lặp lại đấu pháp này. Khi Jean góp ý rằng danh hiệu Nhóm những người cách mạng Việt Nam có thể đã làm cho đồng bào ngại ngần, Nguyễn đáp: “Chúng ta phải tranh đấu, và phải khuếch trương để tạo sự chú ý” ( AOM, SPCE 364, báo cáo của Jean, 21/1/1920)…
Nguyễn tiếp tục được bẩm báo đang miệt mài đọc trong thư viện Thánh Geneviène cạnh điện Panthéon. Một phần của chiến dịch đòi quyền dân tộc nói trên chính là kế hoạch phát hành một cuốn sách của Nguyễn Ái Quốc về những thành tích xấu xa của Pháp ở Đông Dương, nhan đề Les Opprimés(Những người bị áp bức). Để tăng trọng lượng cho cuốn sách, Nguyễn trích dẫn hàng loạt tác gia Pháp, kể cả các tài liệu về tình hình canh nông và tài chính Đông Dương. Danh mục sách mà Nguyễn tham khảo cũng được mật vụ lập tức lưu trữ. Nguyễn cho hay sẽ gây quỹ để ra cuốn sách bằng cách tìm một đảng viên xã hội nào thuê anh ta giúp việc trong nhà. Nhưng mãi đến tháng 9 mật vụ vẫn thấy Nguyễn Ái Quốc đang đốt đuốc lên tìm tài trợ, và vẫn mong chờ Marcel Cachin ở báo L’Humanité sẽ nhận in giúp ( AOM, SPCE 364, envol 113, S.R. Deverzé, 17/9/1920). Ngay trước đó, những hoạt động chính trị hăng say đã bị gián đoạn do việc Nguyễn bị áp xe ở vai phải nằm viện, không rõ có phải do di chứng lao phổi không? Nhưng đằng nào sang năm Nguyễn cũng sẽ mất việc ở hiệu ảnh, do bị lao. ( AOM, SPCE 364, envol 113, S.R. Deverzé, 14/11/1920).
Khi đã rõ rằng Nguyễn Ái Quốc với Nguyễn Tất Thành chỉ là một, người Pháp thấy cần vạch ra một chiến lược quản lý đối tượng này. Trước hết phải hạn chế đến mức thấp nhất các tiếp xúc của Nguyễn với người Việt, vì thế vào mùa thu năm 1920 người ta đã quyết định giữ chân anh ta ở Pháp. Giám đốc mật vụ Đông Dương René Robin đề xuất rằng không cấp hộ chiếu cho Nguyễn Ái Quốc, rằng các quan chức trông nom người Đông Dương ở chính quốc nên bảo cho Nguyễn biết rằng chỉ có thú thực thân thế của mình thì mới hòng có vé về Việt Nam. Nhưng sau khi được triệu lên Quận hôm 20/9, nơi người ta chụp ảnh và thẩm vấn Nguyễn, đương sự đã đi thẳng lên trụ sở Hội nhân quyền để tố cáo hành vi truy bức của cảnh sát ( AOM, SPCE 364, báo cáo nhanh của tổng giám sát Guesde gửi Bộ trưởng Nội vụ, 12/10/1920).
Nhà cầm quyền Pháp ở Hà Nội đâu có ngại gì việc Nguyễn quay về Đông Dương, nơi đang chờ để trừng phạt anh ta về tội danh bí mật xuất dương. Họ chỉ sợ đương sự sẽ đi sang một nước khác, nơi mà “Nguyễn hoàn toàn thoát khỏi vòng kiềm toả, và chúng ta sẽ tha hồ kinh ngạc với những phép màu mà một con người quả quyết như thế tạo ra”. Người Pháp nhận định: “Một Nguyễn Ái Quốc bị vạch mặt và giám sát bởi cảnh sát thủ đô quả là điều tốt nhất có thể mong đợi”. Tổng giám sát Guesde liệt nhóm người ở số 6 đường Gobelins do Nguyễn Ái Quốc cầm đầu là “nguy hiểm nhất” trong số 250 “phích” -những người Việt ở Pháp bị tình nghi.
Tại Tours Nguyễn Ái Quốc đã dành sự lựa chọn cho thế lực sẽ chi phối phần còn lại cuộc đời mình. Phong trào cộng sản sẽ trở thành mái ấm gia đình đồng thời là cơ quan chủ quản… Về sau này Chủ tịch Hồ Chí Minh có vẻ như đã tìm cách gây cảm tưởng rằng ông không quan tâm lắm đến các cuộc tranh luận về học thuyết trong nội bộ Quốc tế Cộng sản thời đó. Thật khó mà tin được rằng Nguyễn Ái Quốc tới đại hội Tours mà không hiểu rõ các vấn đề đã phân liệt các nhà xã hội cấp tiến và ôn hoà, vì suốt một năm rưỡi trời trước đó, Nguyễn liên tục tham dự các diễn đàn chính trị Paris và đọc sách báo cánh tả.
Sang Matxcơva ba năm sau, Nguyễn Ái Quốc sẽ thực hành cách đối nhân xử thế mềm dẻo của một nhà chính trị thực dụng. Chẳng hạn, từng tham gia hội Tam điểm để mở rộng quan hệ, với tới các giai tầng có ảnh hưởng trong xã hội Pháp, ngay sau đó Nguyễn đã cắt đứt mối liên hệ này, và cả các giao thiệp với Hội nhân quyền Pháp nữa ( AOM, SPCE 365, note conf no 479 S.R folder 1922), theo Giáo huấn của Quốc tế cộng sản. Đồng thời, khả năng miễn dịch với bệnh xơ cứng giáo điều theo một sách lược kiểu như Machiavelli chính là nhân tố đã giúp Hồ Chí Minh tồn tại bằng ấy năm trong khuôn khổ Quốc tế Cộng sản.
Nguồn: Xưa & Nay, số 258, 4/2006, tr 6-9, 26