Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 30/03/2010 18:39 (GMT+7)

Minh triết về nhân tài và thời thế

Hồng Lĩnh sơn cao

Song Ngư hải khoát

Nhược ngộ minh thời

Nhân tài tú phát

Nghĩa là:

Hồng Lĩnh núi cao

Song Ngư biển rộng

Nếu gặp thời sáng

Nhân tài nở bừng

Câu ca ấy nêu ra một qui luật cơ bản và quan trọng về mối quan hệ xã hội và nhân tài. Ở đây có hai thuật ngữ, hai khái niệm: nhân tài và minh thời cần biện giải.

Về khái niệm nhân tài, trong một loạt bài viết trao đổi về đề tài này,nhiều người đã nêu khá chi tiết khá đầy đủ. Tôi chỉ xin nhấn thêm 3 điểm. Thứ nhất là ông cha ta đã từng biết quan niệm nhân tài trong một thể thống nhất cả hai yếu tố tài và đức. Không thể nói tàinăng mà quên đạo đức. Người tự rèn luyện để vươn tới tài năng, người giáo dục, bồi dưỡng tài năng và cả ngươi sử dụng tài năng đều phải biết điều quan trọng ấy. Thứ hai, người xưa còn nói rõ là HiềnTài (tôi phải viết hoa hai chữ này). Hiền không chỉ có nghĩa bằng phẳng là đức hạnh. Không chỉ là đức hạnh trong những mối quan hệ xã hội nổi lên ở bề mặt của các giao tiếp. Người hiền nghĩa là ngườithông tuệ, tài năng và đức hạnh của họ đạt tới mức thông tuệ, trở thành như bản năng, như bản chất, tự nhiên như nhiên mà tài đức. Đức hạnh tới mức thông tuệ, như nhiên, không cần phải hô khẩu hiệulên gân cốt, và phải định kỳ lên giây cót học tập chỉnh huấn. Hoặc giả nói năng tuyên bố, lên lớp chỉ thị rất đức hạnh nhưng hành xử thì… không còn gì để nói! Người xưa chê đó là lũ khuyển nho hủ nho(khuyển là chó, hủ là mục nát). Thứ ba là có sự phân biệt nhân tài và thiên tài. Thiên tài là người có tài năng siêu việt, hơn người, có những cống hiến có giá trị đỉnh cao, cắm những mốc mới trênđường phát triển xã hội, dân tộc và nhân loại. Người xưa, đó là Lý Thái Tổ, là những vua đầu đời Trần, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Lê Lợi, Quang Trung, Nguyễn Du. Người ngày nay là Hồ Chí Minh -người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà chính trị của đất nước. Như thế, trong lịch sử phát triển dân tộc cần có nhiều nhân tài, cần có thiên tài. Nhiều nhà khoa học nhận định rằng cứ 8 – 10 triệungười mới có một. Người có tố chất thiên tài, mà còn phải hội đủ những điều kiện xã hội nữa mới trở thành thiên tài được. Như Nguyễn Trãi nói (Nước ta) “Có lúc mạnh yếu khác nhau”. (Nhưng) Anh hùnghào kiệt thì đời nào cũng có”. Tuy thế qua các đời “anh hùng hào kiệt” (hiền tài và thiên tài) của nước ta chủ yếu chỉ xuất hiện trong lĩnh vực chính trị, quân sự, văn hoá và văn chương. Chúng ta ítcó hiền tài, thiên tài trong lĩnh vực triết học, những khoa học tự nhiên kỹ thuật. Phải chăng đó là chỗ thiếu của chúng ta và hi vọng sẽ bù đắp và cải chính trong thế kỷ mới này. Suy nghĩ về vấn đềnày không phải là không có ý nghĩa.

Bàn đến thiên tài, nên tìm hiểu về tố chất của người Việt. Có một số người nhận xét rằng người Việt ta kém năng động – sáng tạo. Nói thế không thật thoả đáng. Từ thời tiền sử xa xôi, ông bà ta đã để lại dấu ấn tài hoa, sáng tạo, có thể thấy rõ trong 4 lĩnh vực.

Thứ nhất, họ đã sáng tạo nên nền văn minh lúa nước, cho đến bây giờ vẫn được coi như một đặc sắc của văn minh nhân loại. Từ hai, ba ngàn năm trước chữ Việt, danh xưng của tộc người đã được ghi bằng bộ mễ. Mễ là lúa gạo. Ở Hà Nội nay còn có tên làng Mễ Trì, Mễ Sở. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng trà, hay chè là sản phẩm và cả tên gọi là sáng tạo Việt. Người Tàu xưa họ gọi là mính. Chính Khổng Tử cũng nói người Bách Việt biết vào rừng hái một thứ lá gọi là trà để uống. Cả một hệ thống bộ giống, kỹ thuật gieo trồng, chăn nuôi và cả nghệ thuật chế biến để ăn uống tiêu dùng được sáng tạo ra còn được ghi chép lại bằng thơ ca để truyền dạy. Cả hệ thống công cụ và cơ sở hạ tầng, bằng chứng là con đê và con kênh. Nói đến những con kênh ở Nam kỳ lục tỉnh xưa phải nhớ đến cuộc mở cõi. Huỳnh Văn Nghệ có câu thơ: Từ thuở mang gươm đi mở cõi. Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long.Nhưng nhà thơ Huy Cận vốn là kỹ sư nông nghiệp, nhiều lần nói với tôi, tớ chứng minh cho cậu, ông cha ta thật sự là mang cày đi mở cõi. Có thể họ đã mang đi cả hai. Nhưng câu ca dao hào hùng: Làm trai cho đáng nên trai – Phú Xuân đã trải Đồng Nai cũng từng,thì đã mỹ hoá cái tinh thần năng động – sáng tạo ấy.

Thứ hai, là nghề thủ công. Phải cộng thêm một từ nữa mới rõ ý mỹ nghệ. Tây họ chỉ có một chữ là artisamat, có sẵn từ tố art là khái niệm mỹ thuật rồi. Ông bà ta đã sáng tạo kỹ thuật và mỹ thuật đúc đồng (trống) gốm sứ, chạm khắc (gỗ, đá, đất nung) kiến trúc. Gốm sứ thời Mạc nổi tiếng thế giới. Trong kiến trúc không chỉ có thợ giỏi còn có cả công trình sư như Nguyễn An thời Hồ, như Vũ Như Tố thời Lê Tương Dực.

Ngược dòng lịch sử lên tận bảy tám ngàn năm trước Công nguyên, người Việt đã sáng tạo nền văn hoá đồ đá Hoà Bình được coi là một cái nôi văn hoá đồ đá của nhân loại. Tài năng sáng tạo qua bàn tay khéo léo dường như đã in dấu được di truyền trong gen. Ngày nay chúng ta cần có chiến lược để khai thác, sử dụng, nâng cao.

Thứ ba, là tinh thần năng động, sáng tạo trong quân sự. Chẳng những cha ông ta có tài thao lược, điều binh khiển tướng mà có cả những sáng tạo về vũ khí. Từ thời nhà Tần, Lý Ông Trọng người Từ Liêm đã là danh tướng. Khi ông mất rồi, Tần Thuỷ Hoàng còn cho đúc tượng ông to lớn để trấn ngự quân Hung nô. Cái nỏ liên châu bắn một phát nhiều tên là sáng tạo Việt, phương Bắc (Triệu Đà) phải dùng mẹo gián tiếp mới đoạt được bí quyết. Đời Hồ Quý Ly, Hồ Nguyên Trừng là nhà sáng chế súng đồng dùng thuốc nổ. Loại binh khí có tên là hoả hổ (súng phun lửa) mà quân Tây Sơn dùng đã khiến quân nhà Thanh kinh hồn vỡ mật. Chúng ta cắt nghĩa thế nào hiện tượng một Võ Nguyên Giáp, bạch diện thư sinh, rời bục giảng trường trung học, ngay lập tức trở nên vị tướng lĩnh tài ba, đức độ? Trong lớp đàn anh của tôi ở trường Quốc học Huế có một người có thể coi là nhà quân sư bẩm sinh. Đó là Đặng Văn Việt. Từ cuộc cầm quân đầu tiên năm 1946, cậu Tú Việt được phong ngay Trung đoàn trưởng, sau đó trăm trận trăm thắng nổi danh là Hùm xám đường số 4 (người Pháp xưng tụng ông) mấy chục năm chiến chinh xuất ngũ vẫn là Trung đoàn trưởng (nhưng đấy là câu chuyện khác của chính sách dùng người). Lịch sử buộc dân tộc Việt phải biết đánh giặc, giỏi đánh giặc. Cái tinh thần năng động sáng tạo về quân sự là một giá trị nhân văn Việt.

Thứ tư, là cha ông ta đã sáng tạo nên một hệ thống triết lý lối sống. Nhiều người đã có nhận xét mọi triết thuyết, mọi trào lưu tôn giáo, trào lưu tư tưởng của thiên hạ khi nhập cư Việt Nam đều bị khúc xạ, nhào nặn lại. Xu hướng chủ đạo là không thiên về luận giải những lẽ siêu hình, trừu tượng, thuần tuý triết lý. Mà dung nạp, chế biến để trở thành những minh triết, đạo lý của lối sống, của mọi mối quan hệ nhân sinh. Vì thế có nhiều người chê là người Việt không có triêt học (!?) Cả cái hệ thống triết thuyết Mác – Lê cũng không là ngoại lệ. Vì thế mà Hồ Chí Minh mới có câu định nghĩa Tài tình chủ nghĩa Mác – Lê là gì, là phải biết sống đoàn kết yêu thương lẫn nhau.Đáng tiếc là nhiều người không hiểu được điều đó, không thể hiện nỗi cái năng động sáng tạo này của người Việt nên đã rơi vào giáo điều tệ hại.

Bốn lĩnh vực thể hiện tính năng động – sáng tạo của người Việt phải được nghiên cứu học hỏi, phải được nâng cao. Đó là cái gen ưu trội mà chúng ta có được qua cả những ngàn năm. Không được quên nó, không được để nó thoái hoá đi. Rất mừng là đã có những con người tâm huyết, có tài hoa đang biết đem ứng dụng vào cuộc sống làm ăn kinh doanh,góp phần chấn hưng Đất nước.

Khi bước vào thời kỳ văn minh tin học, tố chất Việt cũng đã thể hiện năng lực sáng tạo tiềm tàng của nó. Chiếc máy tính điện tử đầu tiên ở Pháp là sáng tạo của một tài năng Việt. Sự cảm thụ và biểu diễn tinh tế bằng dương cầm nhạc của Chopin vào bậc nhất thế giới cũng là tố chất Việt. Tuy nhiên để cho nhân tài không chỉ xuất hiện lác đác như “sao buổi sớm” mà hiện thân những chòm “nhịp thập bát tú” mới, thì phải bàn, phải làm nhiều điều mới mong có sự “bùng nổ”. Vào tháng 11 – 1945 Hồ Chí Minh viết bài Nhân tài và Kiến Quốc, chỉ ra bốn lĩnh vực cấp bách cần nhân tài. Ngày nay có cả trăm, cả ngàn lĩnh vực đòi hỏi phải có nhân tài. Những nỗ lực của từng cá nhân, ở cấp gia đình ở cấp chính sách quốc gia là phải gấp gáp tính toán với những đầu tư mà bia đá ở Quốc Tử Giám khẳng định “không biết đến đâu là cùng”.

Ông cha ta đã nêu qui luật: “Nhược ngô minh thời, nhân tài tú phát”. Nên trước hết chúng ta phải nhận thức rõ mấybài học tiêu cực của lịch sử cận và hiện đại. Thời kỳ đầu nhà Nguyễn vì tính hủ lậu của vua, quan triều đình mà nhiều nhân tài bị mai một. Những kẻ hiền tài nhìn xa, trông rộng đành ôm hận, mà cơ hộichấn hưng dân tộc cũng trôi qua. Thời kỳ thực dân Pháp cai trị biết bao hiền tài bị tiêu diệt trong ngục tù và dưới lưỡi dao tàn bạo của máy chém. Nhân tài không thể nảy nở với chính sách ngu dân.Dưới thời cách mạng, bao nhiêu nhân tài phải huy động cho chiến tranh cứu nước. Nhưng có nhiều nguyên nhân phức tạp khiến chúng ta cũng mắc phải sai lầm làm thui chột, vô hiệu hoá những tài năng. Vídụ gần nhất phải kể đến trường hợp thầy Nguyễn Mạnh Tường, con người mới 21, 22 tuổi đã đoạt hai bằng tiến sĩ (Văn chương và Luật khoa ở Pháp). Khi về nước, có một cụ già ra tận cầu tàu Hải Phòngđón, sụp lạy thầy Tường và nói ngài tuổi trẻ đã làm vẻ vang nước nhà, xin đừng bắt chước người ta ra làm quan vinh thân phì gia. Thầy Tường nhớ lời chỉ đi dạy học và mở văn phòng luật sư (tư nhân).Vào kháng chiến thầy là một trong những cột trụ xây nền đại học mới. Nhưng chỉ vì phát biểu về một vấn đề mà Hồ Chí Minh từng nêu năm 1919 tại Versailles là nhà nước pháp quyền. Không được lãnh đạobấy giờ thừa nhận khiến phải dạy chui, dịch thuật chui suốt 30 năm! Đến lúc đổi mới, thầy đã già, rồi mất đi trong sự nuối tiếc khôn cùng.

Cần lưu ý đến mấy sự thật lịch sử sau: Đó là cuối thời cận đại kể cả khi đã tiếp xúc với chân trời văn hoá Tây phương (thế kỷ XIX) ở nước ta vẫn còn tình trạng trượt dài theo mô hình tư tưởng coi Hoa hạ là trung tâm văn minh. Tàu họ muốn nghĩ sao tuỳ họ - còn mình là Việt lại phải cái bã Tống Nho cũng coi mình là văn hiến, kẻ khác là mọi, là man di. Vì thế mà từ chối năm lần bảy lượt những đề án cải cách, nào là của Nguyễn Trường Tộ, nào là của Nguyễn Lộ Trạch, của Bùi Viện, Phạm Phú Thứ… Tưởng rằng vào thời hiện đại, cuối thế kỷ XX, bài học ấy sẽ được thấm thía. Nhưng đã nảy sinh một kiểu giáo điều khác, tự tôn, tự đại coi mình là “đỉnh cao muôn trượng”, là “một triệu lần hơn”, là “vô địch”, là “duy nhất”. Khiến cho vào đầu thế kỷ XX đã có những trí thức vốn đã có dấu hiệu là tài năng lớn nhưng đã không phát triển được thành những trí giả của khu vực, của thế giới, họ bị mài mòn, tự hạ thấp mình xuống cố gắng cho vừa với khuôn khổ chiếc giày đã trở nên lạc hậu nhỏ hẹp! Không thể không nghĩ tới một môi trường trong đó những thiết chế xã hội, chính trị tựa như mảnh đất vừa nghèo dinh dưỡng vừa nhiều yếu tố tác hại khiến cây con, mầm hạt không thể nảy nở tươi tốt, là một tác nhân quan trọng cho sự “tú phát” nhân tài. Người ta có thể bảo ai cấm anh sáng tạo, vươn tới tài năng! Nhưng đó vừa là lời nguỵ biện, vừa là sự bào chữa vụng về.

- Minh thời có nghĩa là thời sáng suốt. Đem ứng dụng khái niệm đó cho hôm nay có thể hiểu đó là một thời kỳ - xã hội có những yếu tố văn minh và văn hiến như sau:

- Một là đường lối chính trị của giới cầm quyền là nhân văn và tiến bộ phản ánh xu thế phát triển của dân tộc và nhân loại. Những hệ thống chính trị xã hội cường điệu giáo điều, biệt phái, cường điệu ý chí chủ quan của một học thuyết duy nhất đều trước sau phá sản. Vì thí nghiệm chủ quan của nó hao tổn quá nhiều nhân tài vật lực. Có thể kể ra hàng loạt ví dụ mà các dân tộc phải gánh chịu trong lịch sử của thế kỷ XX.

- Hai là một nền dân chủ phát triển để có thể dẫn tới sự bừng nở các giá trị công dân và xã hội công dân. Từ trong thế kỷ XIX, Các – Mác đã mơ tưởng tới một Liên hiệp xã hội kiểu mới mà tự do cá nhân là tiền đề tự do của toàn xã hội. Đáng tiếc là những tư tưởng tiên tiến như thế đã không có được một thiết chế chính trị xã hội đủ văn hoá tương thích để thực hiện. Chỉ trong điều kiện phát triển dân chủ, tính chủ động sáng tạo của con người mới được phát huy. Điều ấy rất quan trọng để đảm bảo cho nhân tài nảy nở.

- Thứ ba là những yếu tố kinh tế, văn hoá, khoa học, giáo dục phát triển. Khiến con được sống, phát triển tài năng, nhân cách trong một trạng thái xã hội phát triển theo tinh thần của đạo đức tự do để đạt tới sự giàu có về vật chất, văn hoá, tinh thần của từng người và của toàn xã hội.

- Thứ tư là hệ thống cầm quyền và quản lý đất nước, xã hội, bao gồm cả tổ chức bộ máy và đội ngũ nhân lực, quan chức và công chức, vừa văn minh vừa tài trí, vừa đức hạnh, dân chủ, tinh gọn. Mà nhân dân và xã hội giám sát được, điều chỉnh được. Một hệ thống trì trệ, quan liêu lộng quyền nào cũng là bất hạnh của dân tộc. Ngày xưa Nguyễn Trãi từng ước mơ:

Rày mừng thiên hạ hai của

Tể tướng hiền tài, chúa thánh minh

Hai của quí báu của quốc gia đó là người lãnh đạo sáng suốt và người cai quản hiền tài.

Để cho nhân tài bừng nở, nguyên khí của quốc gia hùng hậu, thế nước lên có được tự do hạnh phúc trong thời đại mới không thể không bồi đắp cho những yếu tố kể trên, hình thành một “minh thời” của dân tộc trong thế kỷ mới này. Nếu như quan niệm của C. Mác về con người là đúng khi ông nói “Bản chất con người là tổng hoà các quan hệ xã hội” thì phải nói rằng cha ông ta trong một nhận thức rất tổng hoà, rất trực cảm đã khẳng định vai trò của “Các quan hệ xã hội” trong ý niệm “Minh Thời”. Chỉ cần có một chút khách quan tỉnh táo, chúng ta cũng thấy rằng nhiều học sinh Việt chỉ có một ít tố chất tài năng khi ra nước ngoài, nhiều người đã vươn tới đỉnh cao trong khoa học, kỹ thuật và nghề nghiệp. Vì thế cùng với việc nâng cao chất lượng giáo dục phải coi trọng rất nhiều đến đổi mới xã hối, trước hết là những thuyết chế chính trị, xã hội, giải phóng con người khỏi những rằng buộc quan liêu, giáo điều. Khiến cho cái lý tưởng của C. Mác tự do của cá nhân là tiền đề của Tự do toàn xã hội, không bị coi là sáo rỗng.

Xem Thêm

Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Ngày 25/6/2025, tại Tp. Huế, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) chủ trì, phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thành phố Huế (Liên hiệp Hội TP. Huế) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức để góp phần tích cực cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023”.
An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Hành trình phát triển văn hóa, ngôn ngữ, giáo dục bền vững của Viện CLEF
Ngày 9/7, Viện Nghiên cứu Phát triển Văn hóa, Ngôn ngữ và Giáo dục (Viện CLEF) đã tổ chức lễ kỷ niệm 5 năm thành lập. Đây là dịp để nhìn lại hành trình hình thành và phát triển của Viện, là lời tri ân sâu sắc gửi tới các đối tác, chuyên gia và cộng đồng học thuật đã luôn đồng hành, hỗ trợ và tiếp sức cho những bước tiến của Viện trong suốt thời gian qua.
Tìm giải pháp thực hiện hiệu quả các dự án viện trợ không hoàn lại
Thủ tục hành chính thực hiện và quản lý các dự án viện trợ không hoàn lại hiện nay còn phức tạp; quy trình xét duyệt, giải ngân còn chậm, ảnh hưởng đến tiến độ và sự hài lòng của đối tác; năng lực quản lý hạn chế; một số đơn vị thành viên thiếu chuyên môn về giám sát tài chính, báo cáo theo chuẩn quốc tế; biến động kinh tế, chính trị toàn cầu khiến nguồn viện trợ không ổn định....
Chủ tịch Phan Xuân Dũng tiếp xúc cử tri tỉnh Khánh Hòa sau kì họp thứ 9, Quốc hội khóa XV
Ngày 9-10/7, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Khánh Hòa gồm ông Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, bà Đàng Thị Mỹ Hương, Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh và ông Nguyễn Văn Thuận đã có các buổi tiếp xúc cử tri tại xã Bác Ái Tây và xã Phước Hà sau kì họp thứ 9, Quốc hội khóa XV.