Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 08/02/2006 23:21 (GMT+7)

Hướng tạo đàn bò lai hướng sữa Việt Nam

1. Cố định đàn bò lai với một tỷ lệ máu HF và LS nào đó (thí dụ F2 với 3/4 máu bò HF và 1/4 máu bò LS hoặc F3 với 7/8 máu bò HF và 1/8 máu bò LS…)

Căn cứ khoa học và thực tiễn của ý kiến này là: tỷ lệ máu bò HF càng cao thì khả năng thích ứng của bò lai càng kém, hiệu quả kinh tế không cao.

Các nghiên cứu gần đây cho biết:

- Sản lượng sữa của bò F3 có xu hướng cao hơn bò F2. Khoảng cách giữa 2 lứa đẻ của bò F2 có xu hướng dài hơn bò F2. Tỷ lệ mỡ sữa của bò lai có xu hướng giảm khi máu bò HF tăng và máu bò LS giảm (Báo cáo: “Kết quả bước đầu nghiên cứu chọn lọc bò cái 3/4 và 7/8 HF hạt nhân lai với bò đực cao sản để tạo đàn bò lai hướng sữa đạt trên 4.000 kg sữa/chu kỳ” của Vũ Chí Cương và cộng sự (2005)).

- Thể tích tinh dịch của bò đực giống lai 3/4 (8,18ml) cao hơn rõ rệt thể tích tinh dịch của bò đực lai 7/8 (5,98ml) Nồng độ tinh trùng của bò đực lai 3/4 (1,17 tỷ/ml) cao hơn rõ rệt nồng độ tinh dịch của bò đực lai 7/8 (1,08 tỷml). Tỷ lệ phối giống có chửa của bò đực lai 3/4 (62%) cũng cao hơn rõ rệt tỷ lệ phối giống có chửa của bò đực lai 7/8 (56,3%) (Báo cáo: “Khả năng sinh trưởng, phát triển, chất lượng tinh dịch và tỷ lệ phối có chửa của bò đực lai hướng sữa 3/4 HF và 7/8 HF” của Phạm Văn Giới và cộng sự (2005)).

Do đó cần phải gây tạo các bò đực lai F2 (3/4 HF và 1/4 LS) hoặc F3 (7/8 HF và 1/8 LS) để phối giống với bò cái cùng loại và cố định đàn bò lai ở mức độ 3/4 HF và 1/4 LS hoặc 7/8 HF và 1/8 LS. Tuy nhiên, khó khăn của việc gây tạo các loại bò đực này là đàn bò cái lai hướng sữa còn ít, không đồng nhất, do đó việc chọn lọc được bò đực lai hướng sữa không dễ dàng.

2. Tiếp tục lai cấp tiến bằng bò đực HF (tỷ lệ máu bò HF trong đàn bò lai ngày càng tăng lên)

Căn cứ khoa học và thực tiễn của ý kiến này là: Ngoài các vùng có khí hậu mát mẻ (bình quân nhiệt độ dưới 21°C) như Mộc Châu - Đức Trọng… các vùng nóng ẩm khác như Hà Tây, TP. Hồ Chí Minh… cũng có thể nuôi được bò HF thuần chủng (tuy phải đầu tư nhiều hơn về vốn và kỹ thuật).

Các nghiên cứu gần đây cho biết:

- Đàn bò HF thuần chủng đã dần dần ổn định, bước đầu có thể nuôi được tại Ba Vì (Hà Tây) với điều kiện phải có hệ thống chống nóng và chuồng trại phù hợp (Báo cáo: “Kết quả bước đầu đánh giá khả năng sinh trưởng, sinh sản và sản xuất sữa của đàn bò HF và Jersey nhập nội tại Trung tâm Nghiên cứu bò và đồng cỏ Ba Vì” của Ngô Thành Vinh và cộng sự (2005)).

- Nhìn chung có thể nuôi bò HF thuần nhập nội từ các vùng có khí hậu nóng ẩm như TP Hồ Chí Minh, bò HF thuần nhập từ bang Queensland Australia bước đầu đã tỏ ra thích nghi và cho năng suất sữa ở mức trung bình (Báo cáo: “Khả năng sinh sản và sản xuất của bò HF thuần nhập nội nuôi tại khu vực TP Hồ Chí Minh” của Nguyễn Quốc Đạt và cộng sự (2005)).

Do đó có thể dùng bò đực HF thuần (đặc biệt là bò đực HF có nguồn gốc nhiệt đới hoặc được tạo ra ở Việt Nam) để tiếp tục phối giống với các loại bò cái lai, tạo ra đàn bò lai có tỷ lệ máu bò HF cao (15/16 HF và 1/16 LS…). Lai tạo theo hướng này thì không phải gây tạo bò đực lai (là một việc làm rất khó khăn, khi đàn bò cái lai không nhiều và mức độ máu không thuần nhất).

Theo chúng tôi, tỷ lệ máu bò HF trong đàn bò lai của Việt Nam thấp hay cao là phụ thuộc vào điều kiện môi nuôi dưỡng đàn bò: điều kiện nuôi dưỡng kém thì tỷ lệ máu bò HF thấy, còn điều kiện nuôi dưỡng khá thì tỷ lệ máu bò HF có thể cao hơn.

Thực tế cho biết: điều kiện nuôi dưỡng bò sữa của ta là không đồng đều, có nơi kém có nơi khá. Do đó, có nơi chỉ nên nuôi bò F2 (3/4 HF và 1/4 LS) hoặc F3 (7/8 HF và 1/8 LS); có nơi có thể nuôi bò F4 (15/16 HF và 1/16 LS) hoặc F5…

Điều đó có nghĩa là trong một thời gian dài nữa, đàn bò lai hướng sữa Việt Nam sẽ có nhiều chủng loại khác nhau F1, F2, F3, F4, F5… và đòi hỏi chúng ta phải tiến hành công tác quản lý giống một cách chặt chẽ. Cuối cùng, người trực tiếp chăn nuôi bò sẽ là người quyết định việc nuôi giống bò thích hợp và có hiệu quả nhất đối với họ.

Nguồn: T/C Chăn nuôi 11/05

Xem Thêm

Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Ngày 25/6/2025, tại Tp. Huế, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) chủ trì, phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thành phố Huế (Liên hiệp Hội TP. Huế) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức để góp phần tích cực cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023”.
An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, tập hợp, đoàn kết trí thức KH&CN phục vụ phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới
Kể từ khi Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) được thành lập ngày 26/03/1983, Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam đã trải qua 9 kỳ Đại hội, mỗi kỳ Đại hội đã thực sự trở thành những mốc son quan trọng, đánh dấu bước phát triển cả về tư duy chính trị lẫn phương thức hoạt động của toàn hệ thống.
Hành trình phát triển văn hóa, ngôn ngữ, giáo dục bền vững của Viện CLEF
Ngày 9/7, Viện Nghiên cứu Phát triển Văn hóa, Ngôn ngữ và Giáo dục (Viện CLEF) đã tổ chức lễ kỷ niệm 5 năm thành lập. Đây là dịp để nhìn lại hành trình hình thành và phát triển của Viện, là lời tri ân sâu sắc gửi tới các đối tác, chuyên gia và cộng đồng học thuật đã luôn đồng hành, hỗ trợ và tiếp sức cho những bước tiến của Viện trong suốt thời gian qua.
Tìm giải pháp thực hiện hiệu quả các dự án viện trợ không hoàn lại
Thủ tục hành chính thực hiện và quản lý các dự án viện trợ không hoàn lại hiện nay còn phức tạp; quy trình xét duyệt, giải ngân còn chậm, ảnh hưởng đến tiến độ và sự hài lòng của đối tác; năng lực quản lý hạn chế; một số đơn vị thành viên thiếu chuyên môn về giám sát tài chính, báo cáo theo chuẩn quốc tế; biến động kinh tế, chính trị toàn cầu khiến nguồn viện trợ không ổn định....
Chủ tịch Phan Xuân Dũng tiếp xúc cử tri tỉnh Khánh Hòa sau kì họp thứ 9, Quốc hội khóa XV
Ngày 9-10/7, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Khánh Hòa gồm ông Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, bà Đàng Thị Mỹ Hương, Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh và ông Nguyễn Văn Thuận đã có các buổi tiếp xúc cử tri tại xã Bác Ái Tây và xã Phước Hà sau kì họp thứ 9, Quốc hội khóa XV.