Hiểu biết cơ bản về cây chè đắng
1 Nguồn gốc và giá trị kinh tế của cây chè đắng
Chè đắng có tên khoa học là Ilex latifoliaThumb thuộc họ nhựa ruồi.
Chè đắng có nguồn gốc từ Lưỡng Quảng và Bắc Việt, trong "" Đông quân lục"" có ghi rằng: Phương Nam có cây Qua lô, Trà diệc tự, ... Quảng giao có nhiều nhất, qua tìm hiểu cho thấy: cây Qua lô là cây chè đắng, Quảng giao là hai vùng Lưỡng quảng và Bắc Việt. Chè đắng Vạn Thừa huyện Đại tân sớm nổi danh, trở thành cống phẩm, xưa nay đều coi là thức uống quý có giá trị. Đời nhà Thanh: 0.5 kg chè đắng có thể bán với giá 1.280 đồng. Năm 1993 1 kg lá chè bán được trên dưới 800 NDT, 1 kg hạt giống thuần có trị giá ít nhất là 1,2 vạn NDT. Sản phẩm được tiêu thụ ở trong khu và bên ngoài, tại một số nơi ở Đông nam Á như Đài loan, Hương cảng, Xinh ga po, Malaixia ... và một số quốc gia khác sẵn sàng tiêu thụ.
Chè đắng còn gọi là chè lá to hoặc cây nhựa ruồi lá to, tại vùng nguyên sản là huyện Đại Tân (thôn Ku đinh xã Long môn), cây chè đắng còn gọi là chè Phú đinh hoặc chè Đăng, người xưa còn gọi là chè Cao lô. Xinh ga po, Malaixia gọi là ""Vương trà"", Đài loan gọi là ""Nhất diệp thanh", Nhật bản gọi là cây ""Đala". Gần đây giáo sư Tăng Luân Giang ở Trường đại học Hạ Môn đặt tên là "Chè đắng nhựa ruồi" là căn cứ vào kiểm định tiêu bản thu thập được ở huyện Đại Tân năm 1981.
Chè đắng phân bố chủ yếu ở Quảng Tây, đặc biệt là ở huyện Đại Tân. Theo điều tra ở huyện Đại Tân có 23 cây chè đắng, cây lớn nhất đường kính 79cm, cao 29m. Ngoài ra còn thấy ở Long Châu, Long An, Mã Sơn, Thượng Lâm, Huyện Cách ... và một số huyện của Quảng Đông cũng có nhiều cây mọc rải rác. Hạt chè đắng thuộc loại có thời gian ngủ dài, tương đối khó nẩy mầm, trong điều kiện tự nhiên mọc thành cây cực kỳ ít, gần như bị tuyệt tích.
Tại Việt Nam , cây phân bố ở các tỉnh miền núi phía Bắc như Lạng Sơn, Cao Bằng... hiện nay vẫn còn một số cây mọc tự nhiên trong rừng có đường kính đến 60 -70 cm.
Tại Trung Quốc, cây Chè đắng trở thành một sản phẩm hấp dẫn của huyện Đại Tân, giống chè, cây chè non được bán đến tận Quảng Đông, Hồ Nam, An Huy, Triết Giang, và đảo Hải Nam ...
Tháng 7 năm 1993 Trung quốc tham gia triển lãm sản phẩm và phát minh mới tại Mỹ và dành được 19 huy chương vàng, trong đó Đại học Nông nghiệp Hồ Nam giành được 4 huy chương cho: Nhi trà tố, Trà đa phân, Liên dung trà và công trình ươm giống chè đắng.
Tại Việt Nam, mấy năm gần đây nhu cầu của người tiêu dùng cũng bắt đầu tăng cao, giá lá Chè đắng tươi bán ở Cao Bằng là 7.000 - 10.000 đ/kg và giá chè khô ở Lạng Sơn là 70.000 - 100.000 đ/kg.
Tác dụng làm thuốc của chè đắng
Trong chè đắng bao gồm nhiều chất hoá học: chất đa lượng, chất vô cơ có ích và nguyên tố vi lượng ... kết quả phân tích thành phần hoá học của chè đắng do Trường đại học nông lâm Triết Giang thực hiện năm 1991: trong lá tươi có 16 loại axit amin, trong đó Histidine là chính, nó chiếm 55,92% tổng lượng axit amin ...
Chè đắng có nhiều chất có ích cho cơ thể con người, có tác dụng chủ yếu là tăng trao đổi chất, nó có quan hệ mật thiết với dinh dưỡng của cơ thể . Vì vậy còn gọi là chè đắng là Thọ trà, Mỹ dung trà.
Chè đắng trong tự nhiên mọc rải rác. Ngày xưa chè đắng chủ yếu dùng làm thuốc, ở vùng núi Quảng Tây vẫn giữ được tên cổ chè đắng là Chè đăng, Chè khâm. Tại huyện Đại Tân, chè đắng ngoài việc dùng để uống còn dùng làm thuốc để trị bệnh kiết lỵ, tiêu hoả, giải độc, sát khuẩn, ăn không tiêu, rửa vết thương, thanh nhiệt giải khát, hạ mỡ máu, hạ huyết áp, chống lão suy, chống bức xạ ... chè đắng dùng làm bồi bổ hay trị bệnh đều không có tác dụng phụ, nam nữ già trẻ đều hợp.
Cách phân biệt thật - giả
Chè đắng là một thức uống quí, giá trị làm thuốc tương đối cao, thị trường rộng, giá cao. Cây chè đắng yêu cầu ngày một nhiều. Từ năm 1992, ngay tại huyện Đại Tân, vùng nguyên sản của chè đắng, đã có không ít cây chè đắng giả, làm giả thật lẫn lộn ... Thương khách ở xa đến không sợ giá cao chỉ cần đúng giống.
Cách phân biệt như sau:
• Cây non lá mầm nhiều, có mầu xanh nhạt, cành non hình tròn không gờ.
• Phiến là dày ròn, mặt trên lá xanh thẫm, bóng. Mặt dưới lá màu xanh nhạt. Gân chính nhìn nghiêng rõ. Mép lá có răng cưa ngắn, nhỏ.
• Cuống lá hình tròn, không có rãnh lòng máng, xé lá ra có sợi tơ. Lá chè sau khi cho vào nước sôi, nước chè có màu xanh vàng nhạt, lá từ màu đen chuyển sang xanh, sinh động như sống. Vị trước đắng sau ngọt, cuối cùng có vị ngọt thuần khiết.
2. Đặc tính sinh thái và đặc điểm sinh vật học
2.1. Đặc tính sinh thái học
Chè đắng thích sống ở nơi ấm, ẩm, đất tốt, tơi xốp, tầng dầy sâu. Nó là cây chịu ẩm, thích bóng râm. Sinh trưởng thích hợp với điều kiện: pH đất từ 4,5 - 8,5, độ cao so với mặt nước biển từ 200-600m, từ 106,45 - 108,32 kinh độ đông và 22,06 - 23,50 vĩ độ bắc. Nhiệt độ trung bình ngày trên 21 0C, tổng tích ôn năm là 7000 0C, chịu được nhiệt độ tối thấp đến - 3 0C, lượng mưa bình quân năm từ 1.364mm. Cây non 1 năm ra mầm 3-6 lần, cây trung bình già tuổi chỉ ra mầm 2 lần/năm. Mầm đông nảy trước sau Tiểu tuyết.
2.2. Đặc điểm sinh vật học
Chè đắng là cây cao, độ cao đạt đến 20-30m, thường xanh, cây thẳng, thân hình chuỳ tròn, vỏ màu tro. Chạc cây mọc không theo quy tắc, cành hình tròn, lá đơn mọc cách, lá dày, ròn. Cuống lá thô ngắn hình tròn, không rãnh, dài từ 15-20mm. Phiến lá dài 15-20cm, cây non phiến lá dài hơn, tối đa có thể đến 35cm. Mặt trên lá sáng bóng, rộng 10cm, nặng 10,6 gam. Mép lá có răng cưa, đỉnh nhọn. Hoa mọc ở nách lá cành năm trước, hoa có đường kính khoảng 1cm, màu vàng. Nhiều hoa xếp thành hoa tự giả hình chuỳ tròn. Đực cái cùng gốc, đực cái cùng hoa. Mỗi chùm có từ 30-130 hoa, có 4 đài, 4 cánh, 4 nhị đực ... Nhị đực dài 2-3 mm, mọc ở giữa hai cánh hoa, nhị cái đầu tròn, nằm giữa 4 cánh hoa. Phấn hoa mắt thường có thể nhìn thấy.
Chè đắng nở hoa vào tháng 2, 3, hoa nở khoảng 100 ngày. Quả mọng nước, quả hạch hình cầu, đường kính 8-12mm. Tháng 8-9 khi quả chuyển từ màu xanh sang màu đỏ tím là chín. Chùm quả dài 15-18cm, mỗi chùm thường có 4-10 quả, nhiều thì đến 50-76 quả, trong quả có 4-5 hạt, hạt hình cái lược, nổi nên 3 gờ, dài khoảng 6mm, đường kính 3-5mm, lưng có nếp nhăn. Hạt cứng, nhiều hạt .
Theo kết quả thực nghiệm của Lâm trường Tiểu Minh Sơn thì độ chắc (đầy đặn) của hạt chè đắng rất thấp, lấy 1 kg quả chín bóc tách, đổ vào nước kết quả là: vỏ quả, thịt qủa, chất cặn (vụn) chiếm tới 71,6%, hạt lép nổi trên mặt nước chiếm 14,8%, hạt chắc chìm xuống chỉ còn 13,6%. Trọng lượng 1.000 hạt là 67,6-70,6gram, 1 kg quả tươi chỉ có 884.068 hạt, 1 kg hạt giống thuần có trên 2,2 vạn hạt. Do hạt chè đắng có thời gian ngủ nghỉ tương đối dài, nên tỷ lệ nảy mầm, khả năng bảo tồn cao hay thấp là do kỹ thuật bảo quản và xử lý hạt giống quyết định.
Theo số liệu của vườn ươm thực nghiệm chè đắng của Lâm trường Tiểu Minh Sơn huyện Đại Tân, Chè đắng trồng từ trước năm 1982 đến nay đã hơn 10 năm, có trồng thực sinh, giâm cành, ghép ... đến nay cây cao 5-10m, cây 8-12 năm tuổi. Năm 1988 đã bắt đầu ra hoa, kết quả, gần đây mỗi năm thu được khoảng 50 - 100kg quả.
Nguồn: dof.mard.gov.vn