Hành trình đi tìm bản Quốc ca Việt Nam
Tốt nghiệp đại học năm 1982, Jason Gibbs học tiếp chương trình thạc sĩ về âm nhạc tại trường Đại học Pittsburgh, bang Pennsylvania , hoành thành năm 1984. Cũng tại trường này, năm 1989, anh nhận bằng tiến sĩ âm nhạc với luận án “Lý thuyết âm nhạc và sáng tác”, trong đó có “Semblances” là tác phẩm khí nhạc của anh soạn cho dàn nhạc thính phòng 9 nhạc cụ.
Jason Gibbs bắt đầu “để ý” đến nhạc Việt từ 1985 và có ý tìm hiểu khi sang Việt Nam năm 1993. Nhưng phải đến năm 1995 anh mới thực sự bắt tay vào nghiên cứu nhạc Việt. Mối quan tâm chính của anh là nhạc phổ thông, ca khúc. Rất tiếc là các bài viết về nhạc Việt của Jason Gibbs đều bằng tiếng Anh và được trình bày tại các hội thảo quốc tế hay xuất bản trên tạp chí nước ngoài nên độc giả Việt Nam ít có điều kiện tiếp xúc.
Trong tiểu luận này, tác giả đã điểm lại quá trình hình thành những bài quốc ca của Việt Nam trong thời hiện đại, từ “Đăng đàn cung” cho đến “Tiến quân ca” và một số bài khác nữa. Đây là một tài liệu nghiên cứu nghiêm túc, sử dụng tài liệu phong phú, đưa ra những bằng chứng xác đáng, có thể coi là mẫu mực cho việc nghiên cứu âm nhạc học, cần được tham khảo rộng rãi. Vì khuôn khổ tờ báo có hạn, nên chúng tôi chỉ có thể trích đăng phần khảo cứu về việc hình thành quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ năm 1945. Bạn đọc nào có nhu cầu tìm hiểu toàn văn có thể liên hệ với toà soạn qua hòm thư điện tử.
Loại nhạc cần thiết của quốc gia - dân tộc hiện đại là quốc ca, được dùng trong các dịp lễ nghi chính thức, để tỏ lòng tôn kính đối với những vĩ lạnh đạo đất nước và các anh hùng vũ trang, hoặc các sự kiện văn hoá thể thao. Mặc dù là một thể chế quốc tế quen thuộc, quốc ca chỉ mới phát triển chưa lâu trong lịch sử nhân loại - hầu hết đều được viết ra trong thế kỷ 19 và muộn hơn - từ sự lớn lên của ý thức về nhà nước dân tộc. Khuynh hướng mang tinh thần ái quốc phía sau bản quốc ca đã tìm được mảnh đất màu mỡ tại Việt Nam cuối thời kỳ thuộc địa. Gần như mỗi phe nhóm, trào lưu, đảng phái và chính thể trong suốt thế kỷ XX đầy biến động của Việt Nam đều lựa chọn hoặc đặt làm những bản quốc ca dựa trên yếu tố lịch sử, truyền thuyết và biển tượng đất nước.
Những ca khúc yêu nước theo nhạc phương Tây
Những nhà hoạt động cách mạng chống thực dân đầu thế kỷ 20 dùng nhạc cổ truyền để thể hiện khát vọng tinh thần quốc gia của mình. Những học giả hoạt động trong phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục năm 1907 - 1908 viết những bài hát nói và điệu ngâm dùng các thể thơ cổ (1). Phạm Duy có viết rằng lãnh tụ Quốc Dân Đảng Nguyễn Thái Học đã từng viết những lời yêu nước cho điệu “Bình bán”, một trong những giai điệu sinh động trong nhạc lễ hội và nhạc thính phòng cổ truyền ( nhạc tài tử) (2). Những thể loại khác như hát ả đào, hát xẩm, và dân ca của mọi miền đều được các nhà hoạt động cộng sản Việt Nam sử dụng (3).
Cùng thời gian này, người Việt bắt đầu chú ý đến âm nhạc phương Tây. Trong khi triều đình nhận thấy trong ban nhạc lính một biểu tượng Việt Nam mang tính hiện đại, những nhà cách mạng Việt Nam lại tìm thấy cảm hứng trong giai điệu và thể tài của ca khúc Tây phương. Năm 1926 Hồ Chí Minh viết lời cho bài ca chính thức của phong trào cộng sản “L’Internationale”, tức “Quốc tế ca”, theo thể thơ lục bát truyền thống cho dễ nhớ, song lời này không khớp được với giai điệu. Lời ca được hát ngày nay là đóng góp của Trần Phú, Tổng bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương (4). Vào năm 1930, những nhà cách mạng Việt Nam cũng đặt lời cho những bài hát cách mạng khác như bài “Rot Front” (Mặt trận đỏ” của Đức, bài “Bandiera rossa” (Bài ca Cờ Đỏ) của Ý và cả “La Marseillaise”, bài hát biểu tượng cho cách mạng Pháp cũng là một bản quốc ca (5).
Trong khi đó, một tầng lớp tinh hoa mới được giáo dục trong trường tiếng Pháp, họ học “La Marseillaise” như là quốc ca của họ. “La Marseillaise”, “La Madelon” và “La chanson du dépert” (“Bài hát lên đường” đã gây một ấn tượng mạnh với nhịp quân hành mạnh mẽ của chúng. Hành khúc được xem như một phép chuyển nghĩa cho tinh thần văn minh và tiến bộ. Người Việt Nam bắt đầu nghe thấy những khát vọng này trong hành khúc (6). Nam Kiều, một biên tập viên, ghi nhận rằng trong lúc nhạc Việt quá yếu đuối và tỏ ra thiếu ý chí, nhạc Tây là “mạnh mẽ phấn chấn” và làm cho người ta muốn “nở rộng phổi ra, như nâng cao người lên” (7).
![]() |
Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước (1921 - 1989). |
“Trưng nữ vương” - Lời Việt đặt cho bài “La Marseillaise”, những năm 1920
Đã bao lâu nước Trung Hoa lấn hiếp ta
Làm đổ máu An Nam biết mấy phen
Nhắc tới đó như lửa đốt gan lòng.
Điệp khúc kết thúc bằng một lời nhắc nhở: “Ai ơi là giống Lạc Hồng” (11). Không có gì khó để Lưu Hữu Phước cũng như những người Việt đổi chỗ người Pháp vào vị trí của người Trung Quốc trong lời này.
Đầu những năm 1940, những tác giả viết ca khúc cộng sản đầu tiên như Vương Gia Khương, Đỗ Nhuận và Hoàng Văn Thái viết những ca khúc cách mạng sơ khai trong bí mật và trong nhà tù Pháp (12). Thêm vào đó, nhiều học sinh sinh viên Việt Namđã thể hiện một cách công khai lòng nhiệt thành ái quốc thông qua ca khúc mà Lê Thương đã gọi là “thời thanh niên - lịch sử” trong âm nhạc Việt Nam (13). Những tác giả trẻ này lấy cảm hứng từ niềm vinh quang của những trận đánh và những vị anh hùng trong lịch sử và truyền thuyết Việt Nam . Một nhóm sinh viên miền Nam ra học ở Đại học Hà Nội, gồm người viết ca khúc Lưu Hữu Phước và hai bạn cùng phòng là các tác giả soạn lời Mai Văn Bộ và Nguyễn Thành Nguyên, họ đi thăm những di tích chiến trận lịch sử trên đất Bắc. Tại đây họ tìm thấy nguồn cảm hứng để viết những ca khúc chủ đề lịch sử về cuộc đấu tranh của Việt Nam chống lại quân xâm lược Trung Hoa và Mông Cổ như “Bạch Đằng Giang” và “Người xưa đâu tá” (14). Những ca khúc này được ba người in ra thông qua Tổng hội Sinh viên, AGEI (Association Générale des Étudiants Indochinois) trước năm 1943. Trong những kì nghỉ hè, họ trở về Nam , nơi họ rất nổi tiếng, để biểu diễn và tuyên truyền ca khúc của mình (15).
Mặc dù lời ca mang tinh thần quốc gia chủ nghĩa và lòng yêu nước một cách rõ ràng, những lời bài hát này được sinh viên và các hội hướng đạo sinh trình diễn công khai. Hồi tưởng lại, Nguyễn Thành Nguyên nhận xét, khi nhắc đến sự nương tay của người Pháp, họ có lẽ đã tỏ ra bề trên khi nhìn xuống đám sinh viên, tinh hoa tương lai của Đông Dương, là để cho “xả hơi” (16). Yếu tố quan trọng khác là sự thay đổi trong thái độ của các nhà cai trị Pháp kể từ khi chính phủ Vichy lên cầm quyền. Trong đường lối của chương trình cổ động chủ nghĩa ái quốc và phục vụ “mẫu quốc” của chính phủ Pétain có nhiều đất hơn trước cho người Việt thể hiện khát vọng quốc gia chủ nghĩa của mình.
![]() |
Tác giả (trái) cùng Myles Boisen, thành viên của ban Apes of God, trong phòng thu âm năm 1997. |
Loài nó hút lấy máu đào chúng ta
Làm ta gian nan, cửa nhà tan rã
Bầu máu, nhắc tới đó, càng thêm nóng sôi
Ta quyết thề phá tan quân dã man rồi.
Giữa những tiếng gươm khua, điệp khúc đóng lại: “Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng”- một sự đáp trả rõ ràng đối với tiếng gọi mà Lưu Hữu Phước đã ghi nhớ trong bài “Marseillaise” lời tiếng Việt mà ông đọc trên báo những năm trước đó (18). Mặc dù những lời này không nói đích danh một kẻ thù cụ thể nào, và được viết với hình tượng mang tính lãng mạn của văn chương cổ xưa như chiến trận gươm đao, chúng hiển nhiên là quá khiêu khích đối với nhà kiểm duyệt Pháp. Những lời này không được in và chỉ lưu truyền bí mật.
Giai điệu của bài hát chứng tỏ rất có sức lôi cuốn và là cảm hứng cho vài bộ lời ca khác nhau. Sau đây là bảng thống kê các tên gọi, người viết lời và câu đầu của 7 bản khác nhau của ca khúc “Tiếng gọi thanh niên”, nhạc Lưu Hữu Phước:
1. “Quốc dân hành khúc” (4/1941) lời: Nguyên Phước Bộ (Nguyễn Thành Nguyên, Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ)
- Này anh em ơi! Tiến lên đến ngày giải phóng!
2. “Sinh viên hành khúc” (1941) lời: Nguyên Phước Bộ - Này sinh viên ơi! Chúng ta kết đoàn hùng tráng!
3. “La marche des étudients” (cuối 1941) lời: Nguyên Phước Bộ ( La tribune indochinoise, 1 juillet 1942)
- Étudiants! Du sol l’appel tenace [Này sinh viên ơi! Đất cằn kêu gọi bền gan]
4. “Tiếng gọi sinh viên” (1942) lời: Lê Khắc Thiền, Đặng Ngọc Tốt
- Này sinh viên ơi! Đứng lên đáp lời sông núi!
5. “Tiếng gọi thanh niên” hay “Thanh niên hành khúc” (đầu 1945) lời: không rõ
- Này anh em ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng!
6. “Tiếng gọi thanh niên” hay “Quốc dân hành khúc” (khoảng 8/1945) lời: Huỳnh Mai Lưu (Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ, Lưu Hữu Phước)
- Này dân Việt Nam ! Tiến lên đến ngày giải phóng!
7. “Quốc ca Việt Nam ” hay “Tiếng gọi công dân” (1948) lời: không rõ
- Này công dân ơi, đứng lên đáp lời sông núi!
![]() |
Tác giả (phải) cùng một số ca sĩ Hà Nội (từ trái sang): Tô Lịch, Lộc “Vàng”. |
Trong thời điểm này, các bạn đồng môn với họ ở Đại học muốn có một bài hát sôi động cho trường minh. Dương Đức Hiền, chủ tịch AGEI, biết được bài ca của bộ ba này, gợi ý họ viết một bộ lời ca mới cho bài “Quốc dân hành khúc” để thành bài hát chính thức cho sinh viên mà có khả năng dọn đường cho những lời cách mạng hơn (20). Lời mới mang tên “Sinh viên hành khúc”, nhẹ nhàng hơn về sắc thái. Thay vì “dân”, những lời ca này đề cập đến “đoàn sinh viên ta”, thúc giục họ đoàn kết khi tiến tới “tương lai dân tộc”. Tuy nhiên, lời này khi xin phép xuất bản đã bị kiểm duyệt Pháp từ chối - chủ yếu là do câu cuối nhắc đến “giống Lạc Hồng” (21).
Cuối cùng, ba người bạn đã sáng tác lời mới tiếng Pháp với tên gọi “La marche des étudients”. Do trường Đại học có cả sinh viên Campuchia và Lào bên cạnh ba kỳ của Việt Nam , lời ca tuyên bố:
Từ biển Annam đến phế tích Angkor,
Vượt qua núi non, từ nam ra bắc.
Sau khi kêu gọi phụng sự cho “tổ quốc” điệp khúc viết:
Nguyện vì người, Đông Dương mến yêu!
Với trái tim và sự rèn luyện
Là mục đích, là nguyên tắc của chúng ta,
Và không gì lay chuyển được niềm tin ta(22).
![]() |
Tác giả (phải) gặp nhà chế tác nhạc cụ Tạ Thẩm tại Hà Nội năm 1994. |
Năm 1942, bộ ba Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, Nguyễn Thành Nguyên quyết định tổ chức một cuộc thi viết lời để kiểm duyệt Pháp có thể chấp nhận được cho bài ca chính thức của sinh viên. Lời mới với tên gọi “Tiếng gọi sinh viên” đã qua được kiểm duyệt và trở thành bài hát chính thức của trường Đại học Đông Dương (24). Những lời này mang hình thức có vẻ vô tội trước người Pháp với “giống Tiên Rồng” - một gợi nhớ đến huyền thoại tổ tiên người Việt. Lời ca giục giã thanh niên “mở đường khai lối” và “tung cánh hồn thiếu niên ai đó can trường” (25).
Âm nhạc và giải phóng quốc gia
Ngày 9 tháng ba năm 1945 mang lại bước đầu dẫn đến việc chấm dứt sự thống trị của Pháp ở Việt Nam . Năm 1941, quân Nhật chiếm đóng Đông Dương với sự cộng tác của chính quyền Vichy Pháp. Vào lúc quân Đồng Minh giải phóng Pháp (8 - 1944), quân Nhật tước quyền của Pháp ở Đông Dương (9 - 3 - 1945) (26). Để đảm bảo một bộ máy hành chính trơn tru trên lãnh thổ, Nhật Bản đưa ra một nền độc lập rất nhiều trói buộc cho Việt Nam của Bảo Đại, và ông vua này đã chỉ định học giả Trần Trọng Kim làm thủ tướng. Một trong những hành động đầu tiên của chính phủ Trần Trọng Kim là chính thức lấy “Đăng đàn cung” làm quốc ca của Việt Nam Đế Quốc. Ông cho rằng nhạc này thích hợp do sự cổ kính và trang trọng của nó (27).
Trong khi đó, “Tiếng gọi sinh viên” trở nên phổ biến khắp Việt Nam như một tiếng gọi yêu nước đối với lớp thanh niên. Các tác giả của bài hát này nhớ lại nhó đã được dùng “như một bản quốc ca mới” và được đón nhận không khác gì bài “La Marseillaise” (28). Người quản nhạc của ban nhạc quân đội Hà Nội nhớ lại có những người thanh niên mang bản hành khúc đến cho ông, bảo ông rằng đó là quốc ca (29). Một bạn đọc không nêu tên của Lưu Hữu Phước đã được yêu cầu viết lời khác với tên gọi “Tiếng gọi thanh niên”. Bản này được phổ biến bởi Hội Thanh niên Tiền tuyến do Phan Anh lãnh đạo thuộc chính phủ Trần Trọng Kim sau tháng Ba 1945. Lời này đổi đối tượng thành “đoàn thanh niên ta” vẫn chia sẻ một tinh thần tương tự với những lời trước đây. Họ khắc hoạ bạo động mang tính lãnh mạn của “ sá gì thân sống” và kẻ thù “ phơi thây ta trên gươm giáo”. Thanh niên được kêu gọi “ mau làm cõi bờ thoát con tàn phá” (30).
![]() |
Tác giả (phải) trong buổi phỏng vấn nhạc sĩ Phú Quang tại Hà Nội năm 2007. |
Khi viết bài ca mang tính sự kiện có tên “Tiến quân ca” này, Văn Cao lấy cảm hứng từ nỗi thống khổ ông nhìn thấy từ những người đông bào của mình đang chết đói trên đường phố Hà Nội. Đi lang thang trên những con phố, ông cố hình dung ra những người lính cách mạng mà ông chưa từng gặp, nhưng những hành động dũng cảm của họ thì ông đã biết qua những bài viết trên những tờ báo bí mật. Ông chủ ý viết một bài giản dị sao cho những người lính ấy có thể hát được. Hơn thế, ông tin rằng để cách mạng thành công, người Việt sẽ phải tham gia, vì thế ông viết cho cả đoàn quân tưởng tượng và cho cả đất nước (32).
“Tiến quân ca”bản năm 1944, do ông Văn Thao, con trai nhạc sĩ Văn Cao cung cấp
Đoàn quân Việt Minh đi, chung lòng cứu quốc,
Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa.
Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước.
Súng đằng xa chen khúc quân hành ca;
Đường vinh quang xây xác quân thù.
Thắng gian lao, đoàn Việt lập chiến khu.
Thề phanh thây uống máu quân thù.
Tiến mau ra sa trường.
Tiến lên! Cùng tiến lên!
Chí trai là đây nơi ước nguyền.
Đoàn quân Việt Minh đi, sao vàng phấp phới
Giắt giống nòi quê hương qua nơi lầm than
Cùng chung sức phấn đấu xây đời mới.
Đứng đều lên gông xích ta đập tan.
Dù thây tan xương nát khôn sờn
Gắng hy sinh đời ta tươi thắm hơn.
Từ bao lâu ta nuốt căm hờn
Vũ trang đâu! Lên đường!
Hỡi ai! Lòng chớ quên!
Bắc Sơn cùng Đô Lương, Thái Nguyên.
![]() |
Lễ chào cờ tại Hà Nội ngày 26 - 8 - 1945. |
Việc đầu hàng của Nhật trước quân Đồng Minh được chính thức tuyên bố vào ngày 15 tháng Tám 1945. Trong khi lực lượng an ninh Pháp vẫn bị quân Nhật giam giữ, những người Việt, đặc biệt là Việt Minh vốn được tổ chức tốt, đã đoạt lấy quyền điều khiển. Tổng hội Công chức với sự cho phép của quân Nhật theo kế hoạch, tiến hành một cuộc mít tinh ở quảng trường lớn trước Nhà hát Lớn vào ngày 17 tháng Tám 1945. Cuộc mít tinh tập hợp lúc 2 giờ chiều với lễ kéo cờ triều đình và trình bày bài “Đăng đàn cung” (38). Trong vài phút những đội viên Việt Minh đã chiếm lĩnh cuộc tụ họp, phất cờ của họ từ ban công nhà hát. Họ hạ cờ triều đình và chiếm lấy diễn đàn cùng micro. Những người Việt Minh khác đứng trong đám đông khán giả tổ chức việc hát hai bài “Tiến quân ca” và “Diệt phát xít” của Nguyễn Đình Thi, lúc này đã được in trên tờ rơi; trong những ngày sau bài hát của Văn Cao được hát khắp nơi trong thành phố (39). Đây là bước mở đầu cho cao trào cách mạng tháng Tám, và là bước mở đầu cho quá trình những người cộng sản kháng chiến Việt Nam chống lại người Pháp để giành độc lập cho miền Bắc năm 1954.
Một nhân viên cơ quan O.S.S ( Office of Strategic Services- tiền thân của Cục Tình báo Trung ương Mỹ CIA), Đại tá Archimedes Patti, là một nhân chứng cho những sự kiện lịch sử này. Trong Thế chiến II, Hoa Kỳ dựa vào Việt Minh cho mục đích tình báo và việc hỗ trợ cứu giúp những phi công rơi máy bay. Vào giai đoạn cuối của cuộc chiến, họ cung cấp cho Việt Minh một số ít vũ khí và tổ chức đào tạo. Đại tá Patti tới Hà Nội để giám sát việc đầu hàng của quân Nhật tại đây. Ông mô tả “một khung cảnh đầy màu sắc và ấn tượng” khi viết về ngày 26 tháng Tám 1945. Một đoàn người Việt Nam đông đảo, gồm cả ban nhạc lính, tập hợp trước doanh trại nơi đoàn đại biểu của ông trú. Họ đến với cờ của bốn nước Đồng Minh lớn và lá cờ mới của Việt Nam .
Trong vài giây, các lá cờ được hạ xuống trừ lá cờ “sao và vạch” và ban nhạc chơi bản “Star – Spangled Banner” [“Ngọn cờ dát sao”, tức quốc ca Mỹ]. Đó là lần trình diễn hay nhất bản này mà tôi được nghe thấy ở Viễn Đông. Ở nốt nhạc cuối cùng, các lá cờ được kéo lên và thủ tục được lặp lại theo thứ tự các nước, tiếp theo là Liên Xô, Anh, Trung Hoa và cuối cùng là Việt Nam Dân chủ Cộng hoà... Người chỉ huy đội ngũ, trưởng ban nhạc, và các đơn vị duyệt binh đi qua. Khi đoàn cuối đi ra khỏi cổng, tôi thấy một đoàn dài dân thường, sóng hàng mười, cầm theo nhiều cờ và biểu ngữ... Đoàn diễu hành của họ được những em bé học sinh dẫn đầu, theo sau là những thiếu niên và người lớn... hát quốc ca.
Patti đã không biết rằng ông đang đề cập đến “Tiến quân ca”. Đại tướng Việt Nam Võ Nguyên Giáp nói với ông: “Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam lá cờ của chúng tôi được trưng trong một buổi lễ quốc tế và quốc ca của chúng tôi được chơi vì sự kính trọng đối với một vị khách nước ngoài. Tô sẽ nhớ mãi giây phút này” (40).
_______________
1. Nguyễn Hiến Lê, Đông Kinh Nghĩa Thục, 61 - 74; David G. Marr, Vietnamese Anticolonialism, 1885 - 1925, 157 - 184.
2. Phạm Duy, Hồi ký: Thời thơ ấu- vào đời, 80.
3. Xem Hồng Chương, Tổng luận về Văn học Cách mạng(1925 - 1945), tập 31, 632 – 661.
4. Nguyễn Xinh và Phan Thanh Nam , Hành trình với âm nhạc, 353 - 354.
5. Xem Hồng Chương, 163 - 127.
6. Jason Gibbs, “The West’s Songs, Or Songs: The Introduction of Western Popular Song in Vietnam before 1940”, Asian Music35/1, 62 - 63.
7. Nam Kều, “Ca nhạc Tây và ca nhạc ta”, Đông Pháp thời báo, 4/3/1925.
8 Tuohy, “Sonic Dimension of Nationalism”, 116.
9. Hồng Chương, Tổng luận, 618 - 619.
10. Đinh Nhu là một nhà cách mạng mà các văn bản sử nhà nước sau này ghi nhận là người sáng tác bài hát Việt Nam sớm nhất “Cùng nhau đi hồng binh”. Khảo cứu về lai lịch của bài hát này và người sáng tác, xem Gibbs (sắp công bố).
11. Lưu Hữu Phước nhớ lại những lời này được Tú Linh ở Trà Vinh viết và được in trên báo Trung Lập(1988: 47 – 8). Chúng được in trước đó trên Kịch trường Tạp chí# 3 (12 tháng tư 1927): 21 - 22 với đầu đề “Trưng Vương hùng binh”.
12. Tú Ngọc và nhiều tác giả, Âm nhạc mới Việt Nam : Tiến trình và thành tựu, 134 - 144.
13. Lê Thương, “Thời tiền chiến trong tân nhạc (1938 - 1946)”, Tuyển tập Nhạc Tiền chiến, 65 - 67.
14. Mai Văn Bộ, Lưu Hữu Phước, 73 - 79.
15. Ví dụ, một chương trình được diễn ra tại Nhà hát Lớn Sài Gòn ngày 12/7/1942, dưới sự bảo trợ của tổng đốc Nam Kỳ. Xem Soirée de Gala, VIe Fête des étudiants[Dạ hội, lễ hội sinh viên lần thứ 6]. Sài Gòn: Imprimerie DucLuuPhuong, 1942.
16. Nguyễn Thành Nguyên trả lời phỏng vấn của tác giả, 3/1998 tại San Francisco, California, Mĩ.
17. Hồi ký của một bạn đồng học nói rằng một thành viên quan trọng của một đảng cách mạng không nêu tên đã gợi ý ban đầu cho Lưu Hữu Phước nên viết một “hành khúc của nhân dân”. Nhân vật bí ẩn này đã rất phấn khởi với kết quả, sau đó không xuất hiện nữa (Nguiễn Ngu Í, Nhớ và nghĩ1967a, 33 - 4).
18. Lưu Hữu Phước, Âm nhạc, 20 - 21; Mai Văn Bộ, Lưu Hữu Phước, 106 – 107.
19. Nguiễn Ngu Í, “Nhớ và nghĩ” , phần 1, 34.
20. AGEI, đặc biệt là những sinh viên Nam Kỳ, được Brocheux mô tả là “một điểm tập hợp quần chúng quan trọng”. Họ cũng đóng một vai trò trong việc thành lập Hội Jeunesse d’Avant – Garde (Thanh niên Tiên phong) gồm những nhân vật quan trọng tham gia vào các sự kiện cách mạng Việt Nam (Brocheux, 1982, 164).
21. Nguiễn Ngu Í, “Nhớ và nghĩ” , phần 1, 35 – 37; Mai Văn Bộ, Lưu Hữu Phước, 102 – 103.
22. Những lời này được in lần đầu với tên “ Marche des étudiants: Chant fédéral de l’Université Indochinoise”, trên La tribune indochinoise(1 juillet 1942), 1 – 2. Bản in này đề cập bài hát đã được trình diễn lần đầu tại trường Đại học ngày 18 tháng 1 – 1942.
23. Eric Jennings viết rằng những lời này “gói gọn một tầm nhìn Đông Dương rộng lớn được trau chuốt dưới tay người Pháp”, và cho rằng họ “pha chế những nguyên tắc Vichy như lòng tin cẩn, thanh niên, rèn luyện, nhiệm vụ và tính kiên cường, mặt khác là sự sùng bái đối với một quá khứ Đông Dương thống nhất một cách dị thường (2004, 621 - 2). Mai Văn Bộ tuy nhiên lại viết rằng các tác giả đã cố ý bỏ Pháp và Đông Pháp, không nhắc đến trong lời ca (1998, 77).
24. Nguyễn Thanh Nguyên có nói với tôi rằng đó là việc cần thiết để làm “những thay đổi mềm mại” so với bài hát gốc “mang những từ cách mạng và mạnh mẽ hơn”. Những lời mới này được viết những bạn học là Đặng Ngọc Tốt và Lê Khắc Thiền (thư của Nguyễn Thành Nguyên gửi tác giả, San Francisco , 30 tháng tư 1998).
25. Lưu Hữu Phước, Tráng sĩ ca, 2 - 3.
26. Việc này xảy ra đột ngột cùng lúc triều đình đang làm những việc chuẩn bị cho lễ tế Nam Giao cuối cùng dự kiến diễn ra vào 23 tháng ba 1945. Kết quả là lễ tế không bao giờ còn được tiến hành (Thái Văn Kiểm 1960, 91).
27. Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, 60; David G. Marr, Vietnam1945: The Quest for Power, 120 – 121.
28. Giai điệu này được nhiều phe nhóm và trào lưu sử dụng - thậm chí có cả lời ca than Pétain (Nguiễn Ngu Í 1967a, 38). Điều này có thể đã là thứ đã có trong suy nghĩ của Brocheux khi cho rằng “Lê Huu Phuoc” (viết nhầm) viết một bài hát cho mẫu quốc Pháp rồi phát triển thành một bài quốc ca cách mạng. Xem Pierre Brocheux, “Une adolescence indochinoise”, 43.
29. Đinh Ngọc Liên, Những chặng đời tôi, 35.
30. Nguiễn Ngu Í, “Nhớ và nghĩ”, phần 2, 35 - 36; Lưu Hữu Phước, Tráng sĩ ca, 2 - 3. Lực lượng tôn giáo và chính trị Cao Đài cũng đặt lời cho giai điệu của Lưu Hữu Phước để hát trong các buổi mít tinh của họ. Xem Marr, Vietnam1945, 112.
31. Một bài viết cho nói Văn Cao và người bạn cùng phòng Đỗ Hữu Ích đều nhận được yêu cầu này. Họ biết rằng đang có một nhu cầu về những bài hát cách mạng mới do những người kháng chiến phải dùng bài hát Pháp với lời Việt. Trong thời gian in bí mật, bài hát được ghi với hai cái tên giả là Anh Thơ cho Văn Cao và Anh Dung cho Đỗ Hữu Ích (Tô Đông Hải 1991, 2). Trong thập niên đầu từ khi ra đời, bài hát thường được ghi là nhạc Văn Cao và lời Đỗ Hữu Ích. Phạm Duy nhớ lại rằng Đỗ Hữu Ích đã đóng góp nhiều lời ca cho nhiều ca khúc lãng mạn thời đầu của Văn Cao (1990, 237), điều mà Văn Cao và những người thừa kế của ông vẫn tranh cãi. Vào đầu những năm 1990 nó đã trở thành một vấn đề bất đồng về việc liệu Đỗ Hữu Ích có viết lời cho “Tiến quân ca” hay không. Văn Cao khẳng định ông thêm tên Đỗ Hữu Ích vào những ấn phẩm đầu tiên của ca khúc là ghi nhận đối với một người bạn đã cho ông hỗ trợ vật chất trong thời kỳ khó khăn đó, nhưng nhấn mạnh rằng ông viết một mình lời ca gốc (Xuân Ba 1991, 14). Năm 1992 chính phủ Việt Nam công nhận Văn Cao là tác giả lời của bài hát (“Kết luận của Cơ quan bảo hộ quyền tác giả Việt Nam về tác giả phần lời nhạc phẩm “Tiến quân ca”, Văn nghệ15 (11 tháng 4 – 1992), 2).
32. Văn Cao, “Bài Tiến quân ca”, 4.
33. Phí Văn Bái, “Văn Cao và những nốt nhạc đầu”, Văn Cao: Cuộc đời và tác phẩm, 171.
34. Mar, Vietnam1945, 233.
35. Hoàng Đình Quý: “Bài hát Tiến quân ca đã vang trên đường phố trong Tổng khởi nghĩa 25 - 8 - 1945”, Sài Gòn giải phóng, 25/8/1989.
36. Vũ Đình Hoè, Hồ ký tập 1, 313.
37. Trần Huy Liệu, “Đi dự Quốc dân Đại hội ở Tân Trào”, Tập san Nghiên cứu Lịch sử, 17/8/1960, 42.
38. Một hồi ký nói rằng bài “Tiếng gọi thanh niên” của Lưu Hữu Phước cũng được hát ở lúc đầu buổi lễ “Đoàn Thêm 1967, 47).
39. Văn Cao, “Bài Tiến Quân Ca”, 5; Văn Cao, “Tiến quân ca ngày ấy”, Văn nghệ34, 25/8/1990, 1.
40 Archimedes L.A Patti, Why Vietnam: Prelude to America’s Albatross, 198 - 199.
Nguồn: Xưa & Nay, số 299 - 300, 1/2008, tr 46