Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 01/03/2010 18:26 (GMT+7)

“Đánh bài chòi” xuất phát từ đâu?

“Đánh bài chòi” xuất hiện khá lâu đời, phổ biến nhất là tại các vùng nông thôn hai tỉnh Bình Định – Phú Yên vào khoảng giữa thế kỷ XX.

Hình thức và tính cách của trò chơi “Đánh bài chòi” thì ai cũng biết, nhưng về mặt cấu trúc nội dung, từ hình vẽ đến chữ viết và tên gọi của mỗi lá bài trong một bộ bài gồm 3 pho, mỗi pho gồm 27 đơn vị tên gọi riêng… thì không phải ai cũng dễ dàng tường tận.

1. Pho Văn: Ông Ầm, Trán Hai, Ba Bụng, Tứ Tượng, Ngũ Ruột (còn gọi là Ngũ Rún hay Đổ Ruột), Sáu Miểng (Sáu Mập), Bảy Liễu, Tám Miễn, Chín Gan (hoặc Chín Cu), Chín Gối (hoặc Chín Đối)…

2. Pho Vạn: Bạch Huệ (Bạch Huệ Khai), Nhứt Trò, Nhì Bá, Tam Quang, Tứ Ghế (Tức Móc), Ngũ Trượt, Lục Trạng (lục Chạng), Thất Vung, bát Bồng, Cửu Chùa…

3. Pho Sách: Ông Tứ (Tứ Cẳng), Nhất Nọc, Nhị Nghèo, Ba Gà, Tứ Xách (hoặc Tứ Sách), Ngũ Dụm (Ngũ Đất), Sáu Bường (Lực Hột), Bảy Thừa, Tám Dây (Tám Dừng), Cửu Điền (Cửu Điều)…

Gọi tên các lá bài trong 3 Pho trên như đây, khiến cho các cụ Nho học phải nhiều phen lúng túng đã đành mà kể cả những người nghiên cứu “cổ ngữ’ đương thời, cũng đã tỏ ra “bất lực” khi được phát biểu về ca từ của bộ môn Hô Bài chòi này trước khán – thính giả gần xa. Đáng chú ý trước hết là ở đó có sự pha trộn giữa tiếng Hán với Nôm trong tất cả những con bài… khi thì gọi Lục Chạng, Bát Đồng… Khi thì gọi Sáu Bường, Ba Bụng (?!), còn nghĩa của nó thì… chỉ có Thánh may ra mới hiểu nổi! Tứ Cẳng, Ngũ Đít, Nhất Nọc… mang nghĩa là gì, hay đó chính là tên gọi dành cho những anh nông dân nào đó hoặc để ca ngợi các chị dệt lụa, kéo tơ (?). Cũng có thể do tính dễ dãi, chất phác của người bình dân trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ, khiến cho người ta cứ việc “gọi bừa” như đã gọi. Đó là chưa kể tới khi nhìn vào hình vẽ trên các lá bài… khi thì giống như các hình ảnh tượng trưng của người Hồi giáo, khi thì giống như những nét vẽ của người Ai Cập trên các nấm mồ xưa hoặc trên các đền đài ở Nam Mỹ… cũng có một số lá bài đầy vẽ chơn chất như lá bài Ba Gà hoặc lá bài Sáu Hộc dù đôi lúc chúng cũng mang những nét vẽ nghệch ngoạc giống như trường phái Hội hoạ siêu thực, lập thể hoặc giống với kiểu vẽ tranh của Picaso trên các lá bài mang tên Nhị Nghèo, Tứ Tượng…

So với các lá bài khác, trên lá bài chòi không ghi chữ Hán như ở trên lá bài tứ sắc chẳng hạn. Xưa kia, người ta thấy phía trên đầu mỗi lá Bài chòi thường có ghi bằng chữ Nôm. Nhưng sau đó không hề ghi chữ trên lá bài hoặc nếu có thì ghi bằng chữ Việt (dạng La tinh).

Quan sát bộ bài Tây, trên mỗi lá bài thấy có vẽ hình người (từ hình nàng công chúa chơ tới hình các danh tướng, hoàng tử hoặc các bậc vua chúa thời xưa…) rất sinh động, hấp dẫn. Trong lúc đó nhìn đến những lá Bài chòi chỉ có những nét vẽ lăng quăng hoặc vòng tròn tròn, trông giống hệt với mấy “con trùn” của cụ Trạng Quỳnh “đi thi vẽ” vậy!

Những nét thiếu nhất quán nói trên, có thể cho chúng ta thấy rằng “Bài chòi” xuất phát từ những “câu hô”, “lời xướng” để rồi hình thành cùng với nguyên tắc của trò chơi… nên có cùng đặc điểm truyền khẩu theo hướng văn học dân gian. Sản phẩm văn hoá riêng của Bình Định và Phú Yên này xuất hiện từ lúc nào, đến nay vẫn chưa có sự xác định rõ ràng…

Theo nhà thơ Quách Tấn (1910 – 1992) thì Bài chòi đã có từ khá lâu đời… Nhưng, bày ra “điện hô” (Hô Bài Chòi) thì mới xuất hiện cách nay khoảng chừng 50 – 60 năm (1) (tính đến thời điểm 1986). Trước đó, ông Vũ Ngọc Phan đã từng cho rằng… Thời xưa, Bài chòi là một trong các loại Bài thường xuyên được nhân dân ta đưa vào hàng đầu danh sách những trò chơi “Vui xuân” tại các tỉnh Nam Trung bộ (2). Khi nói về các loại hình sinh hoạt dân ca, tác giả Đặng Văn Lung viết: “Hô Bài chòi” là hình thức hô hát bắt nguồn từ trò chơi “bài bạc”, song khi nó phát triển lên cao hơn thì “Bài chòi” cũng đã trở thành một thể loại Dân ca độc đáo của người dân Liên khu V (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà) (3). Cũng như ông Quách Tấn và ông Vũ Ngọc Phan, ông Tạ Chí Đại Tường cũng chỉ đưa ra một số ý kiến xung quanh những nét dân dã đáng được trân trọng trong tinh thần văn hoá dân tộc nói riêng về thể loại Bài chòi mà thôi, còn về phần tìm hiểu cội nguồn, tuổi tác của Bài chòi… vẫn phải tìm hiểu lại nơi các tác giả xưa kia.

Về vấn đề đang bàn, người ta chú ý tới một Giáo sĩ Cơ đốc - người rất đam mê nghiên cứu hầu hết các thể loại âm nhạc nước ta: Giáo sĩ G. L Bouvier, người Pháp gốc Phần Lan – Ông Bouvier từng có mặt tại Việt Nam trong nhiều năm đầu thế kỷ XX, Sir Bouvier đã dành riêng một chương viết đặc biệt với tựa đề La Chanson Populaire de L’ Annam(trong quyển La Rousse Musicale) của mình để nói về “Bài chòi”. Ông cho rằng, Bài chòi được hình thành và phát triển mạnh sau những năm Nam tiến của người Veịet, tức là sau 1470 (4). Trong chương này, ông còn đề cập rất kỹ đến “Bài chòi” kể cả phần so sánh, phân tích những câu chữ bình dân của “Bài chòi” với một số câu chữ bình dân trong Dân ca ở tận xứ sở Algerie (trong đó có câu “Avee un sac plain de piastre surses épaules, même parlent à tort et à travers on est toujours très écouté”) (5).

Sau khi nêu ra những so sánh thú vị đó, Bouvier cho biết thêm… khi đã là cư dân trên những vùng đất từ Amaravati đến Pandaranga (từ Quảng Nam đến Bình Thuận) những cư dân mới này đã cật lực khẩn hoang liên tục trong nhiều thập niên.. và họ đã thành công trong xây dựng kinh tế, văn hoá… ở vùng châu thổ Vifaya (gồm Bình Định, Phú Yên). Được như vậy là nhờ có sự tổng hợp rộng khắp một cách hợp lý cùng một lúc với các dân tộc anh em tại địa phương. Trong số đó có nhiều người cùng mang truyền thống văn hoá lâu đời trên khắp mọi miền ở phía Bắc.

Vốn có sự tập trung phong phú, đa dạng về mặt văn hoá như thế, người người đều có điều kiện kết hợp, hoà nhập nhanh chóng cùng với nền văn hoá của đồng bào sắc tộc Chăm (đã sống lâu đời ở vùng đất này), cải cách một số Dân ca – Dân vũ phù hợp với nếp sinh hoạt cộng đồng vào thời điểm đó. Và trong phần tổng hợp, cải cách quan trọng đó, dù trải qua hơn nửa thiên niên kỷ cải tiến không ngừng về mọi mặt, đến nay vẫn còn một số làn điệu Dân ca giữ lại được bản sắc gốc của nó… như các điệu hò, điệu lý (hò chèo thuyền, hò giã gạo, hò kéo vải… hoặc lý ngựa ô, lý con sáo, lý quét nhà…). Đồng thời khai sinh thêm hai bộ môn trình diễn mới, đó là Hát bộ (hát bội) và Hô Bài chòi (6). (Từ dạng Hô Bài chòi đến nghệ thuật Sân khấu Bài chòi để rồi dần dần trở thành nhiều “Đoàn hát Bài chòi” chuyên nghiệp, giống như tổ chức các Đoàn hát Cải lương - Nam bộ hôm nay).

Nếu “Hát bộ” hình thành qua vị sư tổ Đào Duy Từ (con trai cụ Đào Tá Hán - gốc Nghệ An - học rất giỏi mà không được vào “Trường thi” chỉ vì ông là con một gia đình “xướng ca” thuở ấy (Xướng ca vô loại cơ mà). Đào Duy Từ tìm đến Bình Định nương thân (ở huyện Bồng Sơn). Dịp này, ông vận dụng vốn trí thức xuất sắc của mình trong việc chuyển hoá các tác phẩm nổi tiếng về ca kịch của Trung Hoa trở thành những vở diễn Việt Nam với tên gọi nôm na là “Tuồng hát bội Bình Định”… (qua sự kiện này, ngày nay có 2 tiết điệu Khách và Namtrong cùng điệu Hát bộ - Tiết điệu Khách: từ nước ngoài đưa vào, Tiết điệu Nam : Tiết điệu Thuần Việt)… thì “Bài chòi mang quá trình hình thành như sau:

Tại những vùng định cư mới như đã nêu trên, từ việc xây cất nhà cửa, khai khẩn rẫy, nương, ruộng, vườn…. đều phải dựa vào phần lớn kinh nghiệm của người địa phương. Nhà ở, nhà kho, chòi giữ rẫy đều phải làm dựa theo dạng Nhà sàn, nhằm tiện cho việc dễ dàng tháo gỡ mỗi khi cần chuyển vùng canh tác… cũng như để phòng chống thú dữ tấn công. Trong những điều kiện sinh hoạt như thế, cộng đồng dân cư cần có những trò chơi giải trí cho nhau. Do vậy mà người trong cuộc nghĩ đến cách thức cấu tạo “câu hò”, “câu hát” sao cho phù hợp với những phương tiện trước mắt - trong đó có cả những khu Chòi cao – hô, hát đối đáp với nhau giữa đơn vị này với các đơn vị khác. Tất nhiên, “bạc bài” không thể không xảy ra trong tính cách sinh hoạt nhàn nhã như vậy. “Đánh bài chòi” xuất hiện từ khung cảnh hấp dẫn đó của người xưa.

Chú thích:

1. Quách Tấn,Nước non Bình Định - Nam Cường xuất bản năm 1967.

2. Vũ Ngọc Phan,Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam - Nxb Khoa học xã hội tr 743, 1978.

3.Nghiên cứu khoa học số 5, 1973.

4.Nguồn gốc và tương quan giữa Bài chòi, Hát bộ, Cải lương - Tân văn Sài Gòn, số 4, tháng 8 - 1968.

5. G. L Bouvier- Impriemerue de I’ union , 457 Rue du Catinat, Avrril 1912.

6. Tư liệu của Đoàn Việt Hùng -Văn nghệ Nghĩa Bình Xuân Đinh Mão 1987.

Xem Thêm

Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam: Kiểm điểm, đánh giá chất lượng Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025
Ngày 12/12, Đảng bộ Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị kiểm điểm đối với tập thể, cá nhân Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025. Đồng chí Phạm Ngọc Linh, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Phó Chủ tịch Liên hiệp hội Việt Nam chủ trì Hội nghị. Tham dự có đồng chí Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam cùng các đồng chí trong BCH Đảng bộ.
Chủ tịch Phan Xuân Dũng dẫn đoàn Việt Nam tham dự Triển lãm quốc tế về Sáng tạo khoa học công nghệ (SIIF 2025) tại Seoul
Từ ngày 3-7/12, Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) được tổ chức tại thủ đô Seoul, Hàn Quốc. Theo lời mời của Hiệp hội Xúc tiến sáng chế Hàn Quốc (KIPA), Quỹ Sáng tạo kỹ thuật Việt Nam (VIFOTEC) đã thành lập đoàn tham gia Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) do TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam, Chủ tịch Quỹ VIFOTEC - làm trưởng đoàn.
Tìm giải pháp truyền thông đột phá cho phát triển khoa học công nghệ
Nghị quyết 57-NQ/TW xác định vị thế khoa học, công nghệ và chuyển đổi số là chìa khóa để Việt Nam vươn mình, trở thành quốc gia phát triển. Giới chuyên gia đưa ra lộ trình cụ thể giúp truyền thông chính sách thành hành động, từ xây dựng tòa soạn thông minh đến phát triển hệ sinh thái nội dung số.
Liên hiệp Hội Việt Nam tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ
Chiều ngày 09/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức buổi tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ. Đây là hoạt động tiếp nối tinh thần của Lễ phát động ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên do Liên hiệp Hội Việt Nam tổ chức vào ngày 24/11 vừa qua.
Trí thức Việt Nam đồng hành cùng tương lai Xanh
Đội ngũ trí thức Việt Nam luôn đóng vai trò then chốt với những đóng góp trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo, tư vấn chính sách và truyền cảm hứng cộng đồng. Những chuyển động mạnh mẽ về khoa học môi trường, năng lượng sạch, kinh tế tuần hoàn và công nghệ xanh trong thời gian qua có dấu ấn đậm nét của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ nước ta…
Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
Sáng ngày 05/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Nữ trí thức Việt Nam (VAFIW) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo”.
Các nhà khoa học giao lưu, thuyết giảng tại trường đại học
Từ trí tuệ nhân tạo (AI), vật liệu bán dẫn hữu cơ, công nghệ y học đến biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học… những buổi trò chuyện không chỉ mở rộng tri thức chuyên sâu mà còn truyền cảm hứng mạnh mẽ về hành trình chinh phục khoa học cho hàng nghìn sinh viên và giảng viên cả nước.