Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 20/02/2008 16:04 (GMT+7)

Dân tộc Thổ - nguồn gốc và quá trình tộc người

Người Thổ cư trú chủ yếu ở miền tây tỉnh Nghệ An (các nơi khác rất ít hoặc không có) trong các huyện: Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Quỳ Hợp, Con Cuông, Tương Dương và nhiều nhóm khác nhau với số dân khoảng trên dưới 70 ngàn người, trong đó đông nhất là ở huyện Nghĩa Đàn (với các nhóm: Họ Kẹo, Mọn) có tới trên dưới 30 ngàn người (Tạp chí Dân tộc học số 97, tháng 12 - 2006, tr 3).

Nguồn gốc và quá trình hình thành dân tộc Thổ khá phức tạp, có nhiều vấn đề chưa được khoa học giải đáp đầy đủ..

Theo một số tài liệu nghiên cứu gần đây và theo sự tìm hiểu trực tiếp của chúng tôi, thì dân tộc Thổ ở miền tây Nghệ An nói chung do 3 bộ phận sau đây cấu thành:

- Bộ phận thứ nhấtlà người Việt, thể hiện rõ trong ngôn ngữ. Theo Nguyễn Văn Tài ( Về các phương ngôn tiếng Mường trong “Một số vấn đề ngôn ngữ học Việt Nam ”, 1981) thì: “ đồng bào thổ Mọn nói theo phương ngữ Mường (thuộc ngữ hệ Nam Á); đồng bào Thổ Cuối nói theo tiếng Cuối. Đây là 2 ngôn ngữ thuộc nhóm các ngôn ngữ Việt - Mường. Trong hai thổ ngữ này tiếng nói của nhóm Thổ Mọn gần với tiếng Việt hiện đại; còn tiếng Cuối gần với tiếng Việt cổ đại hơn...”.

Theo GS. Ninh Viết Giao (Sđd) thì “ Nhân dân các xã ở hạ huyện Nghi Lộc (Nghệ An), khi phát âm, có rất nhiều tiếng na ná tiếng Thổ. Trong ngôn ngữ của đồng bào ở phía nam Hà Tĩnh cũng có khá nhiều tiếng cổ tương tự tiếng Thổ. Điều đó khẳng định các nhà ngôn ngữ học xếp ngôn ngữ Thổ ở miền tây Nghệ An nói chung vào ngôn ngữ Việt - Mường là chính xác”. Trên thực tế, truyền thuyết Đan Lai - Ly Hà nói, xưa kia tổ tiên họ ở vùng Thanh Lĩnh - Thanh Hương (huyện Thanh Chương - Nghệ An) sau vì thuế khoá nặng nề, lao dịch khổ ải, họ vùng lên đấu tranh và bị đàn áp khốc liệt, buộc phải bỏ làng ra đi “ Theo dấu chân nai đi trồng hạt lúa; theo dấu chân cọp đi tìm hạt ngô”, chạy mãi lên ngọn nguồn sông Giăng, sông Con... Cuối cùng thành người Đan Lai - Ly Hà.

Người Việt từ miền xuôi, do nhiều yếu tố tác động, nhất là những biến động của lịch sử - xã hội, họ đã từ các huyện đồng bằng bị xô đẩy lên miền núi cao, cư trú lâu ngày và dần bị miền núi hoá, như các cụ già người Thổ ngày nay thường nói đùa câu: “ Kinh già hoá Thổ”.

Nhà sàn của người Thổ ở huyện Tương Dương - Nghệ An

Nhà sàn của người Thổ ở huyện Tương Dương - Nghệ An

- Bộ phận thứ hailà những người Việt cổ cư trú ở miền tây Nghệ An từ rất xa xưa, có thể là từ văn hoá đồ đồng. Họ làchủ nhân của các di chỉ văn hoá làng Vạc, Cồn Kho, xóm Đình (thuộc huyện Nghĩa Đàn), đồi Dùng, đồi Rạng (thuộc huyện Thanh Chương) gần gũi với văn hoá Sơn Vi và liên tục đến văn hoá khảo cổ học ĐôngSơn, cách ngày nay trên dưới 1 vạn 2 ngàn năm (cuối thời đại đồ đá cũ). Dấu vết của văn hoá Sơn Vi được phát hiện ở Nghệ An chủ yếu ở huyện Nghĩa Đàn và Thanh Chương, điều đó cho thấy cư dân Việt cổđã có mặt ở vùng này từ rất xa xưa trong lịch sử phát triển loài người...

- Bộ phận thứ balà những luồng thiên di của người Mường từ Thanh Hoá sang. Trong cuốn: “ 40 năm - một chặng đường”, Nxb Nghệ Tĩnh, 1985, Trương Văn Sinh cho biết: “ Có hai luồng thiên di đã diễn ra ở đây. Hướng đông – nam, người Việt từ Diễn Châu, Yên Thành, Nghi Lộc, Nam Đàn, Đô Lương, Thanh Chương (Nghệ An) lên. Hướng đông - bắc, người Mường và một phần người Việt từ Như Xuân, Ngọc Lặc (Thanh Hoá) xuống ... quá trình tiếp xúc và hào hợp lâu dài dần dần giữa cư dân cũ và mới, hình thành nên dân tộc Thổ hiện nay”.

Trên thực tế cho thấy, yếu tố Mường thể hiện rất rõ trong nhóm Thổ có tên là Họ, Mọn (ở Quỳ Hợp là chủ yếu). Nhóm này nói theo phương ngữ Thổ Mọn là chính. Phương ngữ Thổ Mọn có đầy đủ các đặc điểm của tiếng Mường về tất cả các cấp độ ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp mà nhiều công trình của các nhà ngôn ngữ học Việt Nam và nước ngoài đã miêu tả tỉ mỉ, đầy đủ những điểm cốt yếu. Ngoài tiếng nói, đi sâu tìm hiểu về phong tục - tập quán, văn hoá - nghệ thuật... trong cộng đồng 2 nhóm Thổ ơ Quỳ Hợp (Mọn và Họ) cho thấy văn hoá Mường từ phía đông - bắc (Thanh Hoá, Hoà Bình...) như một dòng chảy ngược về đây và đọng lại thành một vùng riêng biệt tại miền tây xứ Nghệ rộng lớn này.

Về thời gian của các luồng thiên di, nhất là luồng của người Mường ở Thanh Hoá sang, cuốn “ 40 năm - một chặng đường” như đã dẫn ở trên, tr 194, cũng cho biết là vào khoảng thế kỷ XIII - XV. Sách: “Lịch sử huyện Quỳ Hợp - sơ thảo” - Nxb Nghệ An, 2004, tr 27 cho rằng người Mường và người Cuối ở Thanh Hoá chuyển cư vào miền tây Nghệ An khoảng từ thế kỷ XV...

Như vậy cơ cấu dân tộc Thổ hiện thời (theo sự thống nhất của nhiều nhà nghiên cứu) thì có 3 nguồn gốc cơ bản: Nguồn gốc Việt - với các nhóm Kẹo Đan Lai - Ly Hà; nguồn gốc bản địa với các nhóm Cuối và Tày Poọng; nguồn gốc Mường với các nhóm Mọn, Họ. Tuy nhiên, theo cuốn “ 40 năm - một chặng đường”, Trương Văn Sinh cũng nói thêm: “Các nhóm Thổ ở Nghệ Tĩnh có liên quan thân thuộc với các nhóm Tày - Chăm, Tày - Pum, Tày - Hung, Tày - Tum ở tỉnh Khăm Muộn (Lào)”....

Nguyễn Văn Tài, khi bàn về người Thổ ở Tân Kỳ (Nghệ An) cũng viết: “ Thật ra, không thể xác định một cộng đồng cư dân nào đó là một dân tộc mà chỉ bó hẹp việc xác định trong một đơn vị hành chính (dù đơn vị hành chính đó là cấp tỉnh) khi bà con đồng tộc của họ còn sinh sống ở địa bàn khác nữa. Ngoài ra, cũng không nên né tránh một vài tên gọi do một sự mặc cảm nào đó để ảnh hưởng đến tính chính xác của việc xác định thành phần dân tộc” (theo Ninh Viết Giao: Tân Kỳ - truyền thống và làng xã - Nxb KHXH, 1992, tr 74 - 76).

Nguyễn Văn Tài (Sđd, tr 77) còn cho rằng: Theo thống kê của chúng tôi, trong vốn từ tiếng Thổ ở Giai Xuân (Tân Kỳ - Nghệ An), Tam Hợp (Quỳ Hợp – Nghệ An) và Lam La (Nghĩa Đàn - Nghệ An) có xuýt xoát 80% giống vốn từ Mường Bi. Một ngôn ngữ và một nền văn hoá giống nhau đến như vậy, lẽ nào là ngôn ngữ của hai tộc khác nhau? Đáng lẽ nên xếp bộ phận Thổ Mọn ở Nghệ Tĩnh (Kể cả Mọn, Họ, Kẹo) vào cùng một dân tộc với đồng bào của họ ở Thanh Hoá.... Nhưng rất tiếc là họ được ghép với các cư dân Cuối, Đan Lai - Ly Hà, Tày Poọng ( các cư dân khác Thổ Mọn cả ngôn ngữ lẫn văn hoá) để thành dân tộc Thổ...! Tuy nhiên, tộc Kẹo (hay Kéo, Keo) là tên người Thái gọi người Việt (cần Keo - nói theo cách giải thích của GS. Phạm Đức Dương).

Theo Nguyễn Bạt Tuỵ, thì từ “Keo” được phiên âm Hán - Việt là “Giao” trong “Giao chỉ” “Mọn” là tên tự gọi của Mường (mol, nghĩa là Người). “Tày Poọng” là cách gọi của người Lào (Phoong, poọng, Phống) để chỉ người “Khạ” có nguồn gốc Môn - Khơ - me - cư dân tiền Việt Mường (theo cách gọi của GS. Phạm Đức Dương). Tộc danh “Họ” là cách người Lào gọi người Hán. Có thể đó là những người Minh Hương (Hán đã Việt hoá) từ Phù Thạch lên chăng, hay từ xa xưa còn lại? Nếu như vậy thì đã có 3 lớp người Thổ ở miền núi Nghệ An: Việt cổ (Tiền Việt - Mường); Việt gần đây (Hậu Việt - Mường), mà thỉnh thoảng vẫn có người Thổ Quỳ Hợp, Nghĩa Đàn hay Tân Kỳ về miền xuôi tìm họ gốc tổ tiên của mình. (Theo chú thích của Ninh Viết Giao trong: Địa chí huyện Quỳ Hợp, Sđd, tr 140 - 141)...

Như trên đã trình bày, quá trình hình thành tộc danh Thổ khá phức tạp, còn nhiều vấn đề chưa thực sự sáng tỏ. Tuy nhiên, theo nhiều nhà nghiên cứu và trên thực tế, cho thấy tộc danh “Thổ” đã được đồng bào chấp nhận với đại đa số như một lẽ tự nhiên và cũng rất tự giác, mang tính khoa học. Ở Việt Bắc, Tây Bắc nước ta, người Thái, người Tày... một thời cũng được gọi là “Thổ”. Chấp nhận tộc danh Thổ là hợp lý, vì cộng đồng này (dù ở đâu đến, bị “hoá” đến mức độ nào) đều được xem là người bản địa, người Việt - Mường, do nhiều hoàn cảnh của lịch sử - xã hội đã sống biệt lập khỏi người đồng tộc lâu đời và “hoá” thành một tộc khác. Điều này cũng phù hợp với “ quy luật tích hợp văn hoá tộc người” đối với những cộng đồng nhỏ có chung cội nguồn, gắn bó với nhau, và cùng thống nhất một tên gọi chung (theo GS, Phạm Đức Dương)...

Dân tộc Thổ ngày nay đã có nhiều thay đổi, đời sống ngày càng phát triển theo tiến trình đổi mới của dân tộc anh em trên địa bàn miền tây Nghệ An rộng lớn, đồng bào Thổ có một nền văn hoá cổ truyền, đậm đà bản sắc dân tộc rất lâu đời, nhưng chưa được chú ý khai thác, gìn giữ và phát triển cho tương xứng với sự phát triển về mọi mặt hiện nay của đồng bào. Nhiều nét văn hoá cổ truyền mang đậm bản sắc riêng biệt của người Thổ đang có nguy cơ mai một trước những thay đổi từng từng ngày của xã hội mới và sự xô bồ của nhiều nền văn hoá mới lạ ập đến trong thời kỳ đất nước mở cửa! Rất mong được các nhà khoa học, sử học, dân tộc học... tìm hiểu sâu hơn, kỹ hơn và nhiều hơn nữa về cộng đồng này trong tiến trình đổi mới của đất nước, nhằm làm cho đại gia đình các dân tộc Việt Nam hiểu sâu hơn, rõ hơn về dân tộc Thổ ở miền Tây Nghệ An.

Xem Thêm

Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam: Kiểm điểm, đánh giá chất lượng Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025
Ngày 12/12, Đảng bộ Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị kiểm điểm đối với tập thể, cá nhân Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025. Đồng chí Phạm Ngọc Linh, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Phó Chủ tịch Liên hiệp hội Việt Nam chủ trì Hội nghị. Tham dự có đồng chí Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam cùng các đồng chí trong BCH Đảng bộ.
Chủ tịch Phan Xuân Dũng dẫn đoàn Việt Nam tham dự Triển lãm quốc tế về Sáng tạo khoa học công nghệ (SIIF 2025) tại Seoul
Từ ngày 3-7/12, Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) được tổ chức tại thủ đô Seoul, Hàn Quốc. Theo lời mời của Hiệp hội Xúc tiến sáng chế Hàn Quốc (KIPA), Quỹ Sáng tạo kỹ thuật Việt Nam (VIFOTEC) đã thành lập đoàn tham gia Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) do TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam, Chủ tịch Quỹ VIFOTEC - làm trưởng đoàn.
Tìm giải pháp truyền thông đột phá cho phát triển khoa học công nghệ
Nghị quyết 57-NQ/TW xác định vị thế khoa học, công nghệ và chuyển đổi số là chìa khóa để Việt Nam vươn mình, trở thành quốc gia phát triển. Giới chuyên gia đưa ra lộ trình cụ thể giúp truyền thông chính sách thành hành động, từ xây dựng tòa soạn thông minh đến phát triển hệ sinh thái nội dung số.
Liên hiệp Hội Việt Nam tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ
Chiều ngày 09/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức buổi tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ. Đây là hoạt động tiếp nối tinh thần của Lễ phát động ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên do Liên hiệp Hội Việt Nam tổ chức vào ngày 24/11 vừa qua.
Trí thức Việt Nam đồng hành cùng tương lai Xanh
Đội ngũ trí thức Việt Nam luôn đóng vai trò then chốt với những đóng góp trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo, tư vấn chính sách và truyền cảm hứng cộng đồng. Những chuyển động mạnh mẽ về khoa học môi trường, năng lượng sạch, kinh tế tuần hoàn và công nghệ xanh trong thời gian qua có dấu ấn đậm nét của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ nước ta…
Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
Sáng ngày 05/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Nữ trí thức Việt Nam (VAFIW) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo”.
Các nhà khoa học giao lưu, thuyết giảng tại trường đại học
Từ trí tuệ nhân tạo (AI), vật liệu bán dẫn hữu cơ, công nghệ y học đến biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học… những buổi trò chuyện không chỉ mở rộng tri thức chuyên sâu mà còn truyền cảm hứng mạnh mẽ về hành trình chinh phục khoa học cho hàng nghìn sinh viên và giảng viên cả nước.