Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 31/03/2008 17:28 (GMT+7)

Chuột ta và chuột tây

Dưới đây ta cùng xem xét các từ chỉ chuột trong tiếng ta và tiếng Nga, Anh, đầu tiên là về các định danh, sau đó là về nghĩa văn hàm.

1. Về mặt định danh

1.1 Trong tiếng Việt từ chuộtcó âm gần giống với /cuot 8/ trong tiếng Mường, vì đều chung nguồn gốc từ Tiền Việt Mường: (1). Người ta cũng thấy có âm tương ứng trong tiếng Khơme hiện đại /cu:t/ và trong Tiền Khơme, cũng như Thái Lan thế kỉ 14 (1) để chỉ con vật này. Xem ra, có thể thấy từ “chuột” đã có từ lâu đời trong tiếng ta. Có điều lí thú là vào thế kỉ 15 – 16, căn cứ theo “An Nam dịch ngữ” và cách giải thích của Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn, phụ âm đầu “ch” trong từ “chuột” là một âm tắc – xát, mặt lưỡi, vô thanh [t’ s’], trong khi đó “ch” trong hai từ “chua” và “chùa” lại được phát âm như một âm tắc, mặt lưỡi, vô thanh [c] vốn có trong tiếng Việt - Mường nguyên sơ. Trong tiếng ta còn có những cách gọi khác: “thử” (thí dụ, truyện nôm “Trinh thử” - chuyện về “bà” goá “chuột” không chịu đi bước nữa, giữ trọn chữ “trinh”, mặc cho mọi lời ve vãn; rồi lời đối đáp của Trạng Quỳnh với Đoàn Thị Điểm: “Quả dưa chuột, chuộtthẳng gang, có thửchơi thì thử”, trong đó vận dụng hiện tượng đồng nghĩa “chuột” – “thử”) và “tí” để nói về thời gian, tuổi tác (giờ tí – 11 giờ đêm đến 1 giờ sáng, tuổi tí - cầm tinh con chuột). “Ông Tí” là một cách gọi tránh để con vật này không biết là nói vê nó. Từ “tí” Hán Việt có gốc âm từ /*tsi?/ của tiếng Hán trung đại.

Tiếng ta còn có nhiều từ ghép để gọi các loại chuột. Theo môi trường sống, có: “chuột nhà”, “chuột cống”, “chuột đất”, “chuột đồng”, “chuột khuy” (chuột rừng, hại nương rẫy). Theo kích cỡ có: “chuột nhắt”, “chuột lắt”, “chuột nhắt cây”, “chuột bắp ngô”. Về màu sắc có: “chuột bạch”, “chuột lang”, còn gọi là “chuột tam thể” và “chuột đồng nai”. Từ “chuột” còn dùng để gọi những con thú ăn sâu bọ: “chuột chũi”, “chuột chù”, “chuột cù lìa” và cả một loại thú không “bé tí” là “chuột túi” (hoặc “hắc điêu thử”, “căng gu ru”). Tổng cộng trong tiếng ta có đến 23 từ khác nhau để chỉ chuột, kể cả các con thú, mà theo cách ghi nhận của người Việt, cũng được coi là chuột.

1.2 Trong tiếng Nga,có 2 từ cơ bản để chỉ chuột: “mysh’ ” và “krysa”. Từ đầu chỉ loại chuột nhỏ, đuôi trần (tương ứng với loại chuột xám sống trong nhà ở ta), còn từ sau chỉ loại chuột to hơn, lông sẫm, đuôi có vảy (tương tứng như cái mà ta quen gọi là chuột cống, không leo được). Trên cơ sở này, người Nga tạo ra từ cùng gốc khá phong phú: để chỉ chuột con có: “myshonok”, “kryshjonok”; nếu là số nhiều thì phải dùng “myshata” và “krysjata”. Thật là rắc rối! Lại còn có cách gọi âu yếm nữa chứ với những con được coi là bé bé xinh xinh (!): “myshka” (như trong cách gọi đồ chơi “koshka myshka”). Chưa hết, trong khi người Việt hầu như nhất loạt gọi là “chuột”, thì người Nga lại dùng thêm nhiều từ khác: chuột đất là “bandikota”, chuột cống là “pasjuk” (ngoài cách gọi “seraja krysa”: chuột xám), chuột đồng là “poljovka” (“con đồng nội”, ngoài cách gọi “polevaja mysh’ “: chuột đồng), chuột lang hoặc chuột đồng nai hay chuột tam thể: “morskaja svinka” (lợn biển con) và “kavija”, chuột chũi: “krot”, chuột chù: “zemkeroja” (con đào đất) và “burozubka” (con răng nâu), chuột cù lìa: “krot gimalajskij” (thú ăn sâu bọ Hi Mã Lạp Sơn), chuột túi: “kenguru”. Tức là có thêm 10 cách gọi nữa, tổng cộng là 17 tên gọi về chuột.

Về mặt từ nguyên, “mysh’ ” của Nga chắc là có nguồn gốc từ “mus” trong tiếng La tinh và “mys” trong tiếng Hi Lạp. Còn “krysa” có nhiều khả năng là chung gốc với động từ “kryt ¢ ” (che, dấu), và “kryt ¢ sja” (ẩn dấu, ẩn náu). Phải chăng “krysa” là “con ẩn náu trong hang?” Đấy là sự suy đoán của chúng tôi.

Khác với trong tiếng ta, tiếng Nga còn có các tính từđược cấu tạo từ các danh từ chỉ chuột: “myshinyj” và “myshij” (từ cổ), “krysinyj” và “krysij” (từ cổ). Cũng có cả động từ: “myshkovat ¢ ” (và kèm theo là danh động từ “myshkovanie”) nghĩa là “săn chuột” (nói về các động vật có hành động này).

1.3. Tiếng Anhcũng có 2 từ cơ bản chỉ chuột: “muose” (đọc là “mao xơ”, dạng thức số nhiều là “mice”, đọc là “mai xơ”) và “rat” (đọc là “ret”). Từ đầu, về mặt từ nguyên cũng có gốc La tinh “mus” và Hi Lạp “mys”, như ở tiếng Nga. Từ thứ hai có gốc La tinh là “rodere”, nghĩa là “gậm nhấm” và “radere”, nghĩa là “đào bới”. Ngoài ra, khác với “mouse”, từ “rat” vừa chỉ loại chuột ở hang, vừa chỉ loài chuột nói chung.

Từ hai từ ngữ cơ bản đó, trong tiếng Anh có một số từ ghép liền hoặc rời, để chỉ các loại chuột: “house mouse” (hao xơ mao xơ - chuột nhà) hay cũng gọi là “grey mouse” (grây mao xơ - chuột xám), tương đương với “chuột nhà”, “chuột nhắt” trong tiếng Việt; “field mouse” (phin mao xơ - chuột đồng), “vole mouse” (vâulơ mao xơ - chuột đồng, chuột bãi sông), còn gọi tắt là “vole” (vâulơ); “white mouse” (hoai mao xơ - chuột trắng, chuột bạch), khác với “abilinic mouse” (enbinich mao xơ) là “chuột bạch tạng”, một loại dị dạng: “shrew – mouse” (sru mao xơ) tương đương với “chuột chù” trong tiếng Việt. Với từ “rat”: “black rat” (blach ret - chuột đen) làm tổ ở các nhà khoa; “brown rat” (brao ret - chuột nâu) cũng là một loại chuột nhà; “sewer rat” (su ơ ret - chuột cống) sống ngầm dưới mặt đất; “water rat” (oat tơ ret - chuột nước), không phải là chuột, bơi được trong nước, sống trong hang ở bờ sông, bờ ao hồ.

Tiếng Anh cũng có vài từ chỉ những con vật trông giống chuột: “mole” (mâu lơ) tương đương như “chuột chũi” trong tiếng Việt, “guinea – pig” (ghini pich) trông giống con chuột, to, tai ngắn, thường được nuôi làm thú cảnh. Như vậy danh sách (chưa phải là hết kiệt) các từ chỉ chuột hoặc giống chuột trong tiếng Anh ít nhất là có 15 tên gọi, kém tiếng Nga: 17 và Việt: 23 (nhưng không có tính từ và động từ như trong tiếng Anh, Nga).

Khác với tiếng Việt, nhưng lại giống tiếng Nga, trong tiếng Anh cũng có tính từ và động từ phái sinh từ hai danh từ “mouse”, “rat”.

Tính từ:“mousy” (mao xi), “ratlike” (ret lai), “ratty” (ret ti). Động từ: “mouse” (mao xơ), “rat” (ret).

Bây giờ ta hãy xem ý nhiệm về chuột được sử dụng như thế nào để định danhtrong ba thứ tiếng Việt (V), Nga (N), Anh (A).

Cả ba cộng đồng đều có tên gọi riêng dành cho phương tiện chống chuột: “bẫy chuột”, N: “myshelovka” và “krysolovka”, A: “mousetrap” (mao xơ tơ rep), không có “rattrap”. Còn phương tiện để điều khiển máy vi tính, người Anh gọi là “mouse”, thì người Việt cũng “bắt chước” gọi theo là “chuột”, người Nga cũng gọi là “mysh ¢ ” - chuột. Nhưng tiếng Anh có một từ không có trong hai tiếng Việt, Nga đó là “mousetrap cheese” (mao xơ tơ rep tri dơ) – pho mát bẫy chuột, chỉ loại pho mát tồi, rẻ tiền. Cả ba cộng đồng cùng đều lấy chuột làm một chuẩn để nhận biết màu sắc: “màu lông chuột” trong tiếng Việt là màu xám; “myshinyj” tính từ “chuột” trong tiếng Nga cũng có nghĩa là màu xám; nhưng “mousy” (mao xi - chuột) trong tiếng Anh lại là chỉ màu nâu xỉn (của tóc).

Hình ảnh con chuột người Việt thấy hiển hiện qua một loại dưa có hình dáng, kích cỡ hao hao: “dưa chuột”. Loại quả này trong tiếng Nga và Anh được gọi bằng những cái tên không liên quan gì đến chuột: “ogurets” (N), “cucumber” (“kiucămbơ”) (A). Trong khi đó người Nga và người Anh lại thấy bóng dáng của chuột ở một số loại cây, con mà người Việt lại không thấy: “myshinyj goroshk” (hạt đậu chuột), “letutraja mysh ¢ ” (chuột bay, là con dơi). A: “mouse ear” (mao xơ ia – tai chuột, một loại cây mà lá có nhiều lông), “mouse deer” (mao xơ dia – hươu chuột, là loại hoẵng ở châu Á, Tây Phi). Cơ bắp tay khi bị kích thích một cách thích hợp sẽ nổi cộm lên, được gọi là “nổi con chuột”, nhưng nếu cơ bắp chân bị cứng lại, gây đau và không cử động được, thì đấy là “bị chuột rút”, rất nguy hiểm khi bơi lội (trong khi người Nga, người Anh không thấy chuột ở đây, họ gọi là “sudoroga” (N) và “cramp” (crem pơ) (A). “Đuôi chuột” được người Việt coi là một cái gì đó rất bé nhỏ, không đáng kể (trái lại với “đầu voi” là cái to lớn). Một thửa đất, một căn nhà mà “thắt đuôi chuột” thì rất khó bán vì, theo phong thuỷ, không có hậu, không có lợi cho chủ nhà. Nhưng “myshinyj hvostik” – “đuôi chuột” lại là một kiểu tóc bện đuôi sam rất mảnh của các cô gái Nga.

Người Việt còn có một cách liên tưởng rất hóm hỉnh và bất ngờ, khiến người Nga và Anh phải ngỡ ngàng. Chuyện này liên quan đến từ “cống”. Chuột cống là con vật bẩn thỉu, ghê tởm. Nhưng trong tiếng Việt, “cống”, một từ khác, đồng âm, lại chỉ người đã thi đỗ kì thi hương, được gọi là “hương cống”, tương đương cử nhân (tốt nghiệp đại học) bây giờ. Thời xưa, người đỗ hương cống được vinh quy bái tổ, “ngựa anh đi trước, kiệu nàng theo sau: (hoặc “võng anh đi trước, võng nàng theo sua) và được cả hàng tổng ngưỡng mộ đón mừng. Thế là trong dân gian hình ảnh con chuột được dùng làm biểu tượng cho... các ông cống - cử nhân: tranh dân gian Đông Hồ có bức vinh quy bái tổ hay còn gọi là đám cưới chuột, trong đó chú rể là chuột – hương cống oai phong cưỡi ngựa đi đầu đám cưới, đám rước linh đình, còn cô dâu chuột – bà cống e thẹn ngồi trên kiệu bốn người - chuột khênh.

2. Về nghĩa văn hàm

Nghĩa văn hàm là một loại nghĩa của từ ngữ hàm chứa nội dung văn hoá của cộng đồng người là chủ thể của ngôn ngữ đặc trưng cho cộng đồng đó.

2.1 Trong Tiếng Việt, từ “chuột” có dung lượng nghĩa văn hàm khá “hoành tráng”.

Về nghãi văn hàm trung hoà(không tốt, không xấu), “chuột”: 1/ kẻ được hưởng lợi do may mắndù chưa chắc đã xứng đáng (thể hiện qua cách nói “chuột sa chĩnh gạo”, “chuột sa lọ mỡ”, “chuột sa hũ nếp”...); 2/ kẻ được tự do hành động trong chốc lát(“mèo ra cửa chuột sướng”); 3/ kẻ hốt hoảng(“chạy như chuột”); 4/ người bị ướt sũng(ướt như chuột lột/ lội); 5/ tình trạng nhập nhằng, có xu hướng xấu(dở dơi dở chuột).

Nghĩa văn hàm tiêu cựccủa từ chuột, thật đáng giật mình, có đến hơn chục trường hợp, đấy là chỉ: 1/ kẻ hôi hám, bẩn thỉu(hôi như chuột chù, mặc dù chuột chù không phải đích thực là chuột, hơn nữa chuột chính cống cũng hôi không kém); 2/ kẻ lù đù(chuột chù phải khói, lại oan cho thú gậm nhấm này rồi, nó không phải là chuột theo cách phân loại của khoa học); 3/ kẻ táo tợn(“chuột gặm chân mèo”); 4/ kẻ cùng đường(“chuột chạy cùng/ đầu sào”); 5/ kẻ gặp rủi ro(“chuột sa cũi mèo”); 6/ kẻ đội lốt người khác(“chuột đội vỏ trứng”); 7/ kẻ giấu mặt(“cháy nhà ra mặt chuột”); 8/ kẻ đua đòi đài các rởm(“voi đú, khỉ đú, chuột chù cũng chạy quanh” – “con chù” lại bị oan lần nữa); 9/ kẻ xấu còn lên mặt chê bai người khác(“chuột chù chê khỉ rằng hôi”, lại “chuột” chù); 10/ kẻ xấu mà lại ra vẻ ta đây(“chuột chù đeo đạc” – “đạc” là một loại lục lạc phát ra âm thanh vui tai; lại vẫn “chuột chù”); 11/ kẻ xấu mà lại hợm hĩnh(“chuột chù lại có xạ hương” – “nỗi oan định danh” của chuột chù thật là lớn); 12/ kẻ tư cách kém cỏi(“hồng ngâm cho chuột vọc”); 13/ kẻ ranh ma(“chuột khôn có mèo hay”). Tổng cộngg 13 nghĩa tiêu cực, con số này quả là thích hợp với một con vật xấu xa như chuột. Nhưng đấy chỉ là theo cảm nhận của người Việt.

Trong khi đó nghĩa văn hàm tích cựclại chỉ độc nhất: người cứu giúp kẻ đã làm hại mình(“chuột cắn dây buộc mèo”).

2.2 Với người Nga, trong tâm thức của họ, con chuột cũng không đến nỗi nào.

Trong nghĩa trung hoà,“chuột” biểu thị: 1/ người đầm đìa mồ hôi (“kak mysh” – như chuột, chắc là vì hay chạy, lủi?); 2/ người sống âm thầm(“kak myshka v nore/ norke” – như chuột trong hang); 3/ người hốt hoảng tán loạn(“kak krysy s tonuvshchego korablja” – như lũ chuột chạy khỏi tàu đang đắm).

Với nghĩa tiêu cực, “chuột” là: 1/ kẻ nghèo đói đáng thương(“kak tserkovnaja krysa/ mysh” – như chuột nhà thờ, vì các cha cố sống rất thanh đạm, không có thức ăn thừa); 2/ kẻ có thân phận nhỏ nhoi(shtabnye/ tylovye krysy - chuột văn phòng, chuột hậu phương, không được đánh giá bằng ở ngoài mặt trận); 3/ kẻ bực dọc vì bị xúc phạm(nadulsja kak mysh ¢ na krupu” - bặm môi phồng má như chuột phải hạt ngũ cốc, kiểu như “lầm lầm như chó ăn vụng bột” của Việt Nam); 4/ kẻ yếm thế(“kak koshka s mysh ¢ ju/ myshoj” – như mèo vờn chuột); 5/ kẻ luôn phải lẩn tránh(“kak mysh ¢ ” - lủi như chuột).

Trong con mắt người Nga, con chuột không có ưu điểm nào.

2.3 Trong cách nhìn nhận của người Anh, ở nghĩa trung hoà, “chuột” là biểu tượng cho: 1/ người đẫm nước, ướt sũng(“like a drowned rat” – như chuột chìm, tức là bị ướt sũng, tương tự như “ướt như chuột lột/ lội” của Việt Nam); 2/ người lặng lẽ, âm thầm, nhút nhát(“quiet as a mouse” - lặng lẽ như chuột, hoặc: “Are you man or a mouse” – Mày là thằng đàn ông hay là đồ chuột, tức là tương ứng với “đồ thỏ đế” của Việt Nam. Và: “She’s mousy” – con bé này chuột lắm, tức là nhát lắm); 3/ người được tự do hành động trong chốc lát(“When the cat’s away, the mice will play” – Khi mèo vắng mặt, chuột sẽ nhảy múa, kiểu như “vắng chúa nhà gà vọc niêu tôm” của Việt Nam); 4/ hành động lặng lẽ sục tìm hoặc di chuyển(He’s mousing the kiler – Nó đang chuột kẻ sát nhân, tức là đang truy tìm một cách kín đáo); 5/ hành động sục sạo(trong tiếng Anh ở Bắc Mĩ, động từ “mouse” - chuột, nghĩa là làm cái việc sục sạo để tìm kiếm cái gì đó); 6/ người tạo ra tình trạng gay go, quyết liệt(“the rat race” - cuộc đua chuột, tức là cuộc cạnh tranh căng thẳng để giành thắng lợi trong công việc, trong làm ăn... ở một thành phố lớn).

Với nghĩa tiêu cực, trong tiếng Anh, “chuột” gợi ra: 1/ điều bất ổn(“smell a rat” - ngửi thấy chuột, tức là nghĩ hoặc nghi ngờ có điều gì đó không bình thường xảy ra hoặc có ai đó đang định lừa ta); 2/ tình trạng xập xệ, cũ nát(trong tiếng Anh ở Bắc Mĩ, “The house’s ratty” – Căn nhà này đang chuột rồi, tức là đang xuống cấp; “A ratty skirt” - một cái váy chuột là một cái váy đã sờn hoặc bạc màu); 3/ tính dễ nổi giận(trong tiếng Anh khẩu ngữ, “He’s ratty” – Nó chuột đấy, tức là dễ cáu); 4/ là biểu tượng của kẻ yếm thế(“play cat and mouse” hoặc “play a cat – and – mouse game with sb” – chơi trò mèo chuột với ai, tức là coi đối phương là kẻ thua kém, có thể ăn hiếp, bắt nạt dễ dàng, nhưng chưa cần vội vàng; trong khi “trò chim chuột” trong tiếng Việt thì có nghĩa: tán tỉnh, ve vãn đàn bà con gái); 5/ kẻ đào ngũ, chạy sang phía đối phương(“So you’ve changed sides, you dirty rat” - Thế là mày đa thay thầy đổi chủ rồi à, đồ chuột bẩn thỉu”); 6/ đồ chó săn, quân chỉ điểm;7/ kẻ phá hoại ngầm trong nội bộ(thí dụ trong cuộc bãi công); 8/ quân nội gián(cho công ty đối thủ, cho bọn maphia... theo tiếng Anh ở Bắc Mĩ) (các nghĩa 6, 7, 8 là nghĩa của danh từ“rat”: “She’s a rat on our office” – Con mụ đó là chuột trong cơ quan ta đấy); 9/ bội ước, thất hứa;10/ ngầm tố giác(hai nghĩa 9 và 10 là của động từ“rat”); 11/ khi tỏ ý bất bình, bực tức...người Anh thốt lên: “rats” - chuột thật, tức là tương đương với cách nói “chó thật”, “khỉ thật”, “chết tiệt” của người Việt.

Trong tâm thức của người Anh, “chuột” chỉ có một điều tích cực, đó chỉ là người tuy bé nhỏ, yếu ớt nhưng vẫn có thể có ích(“A mouse may help a lion” - Chuột có thể giúp sư tử).

Ta đã điểm qua các nghĩa văn hàmcủa những từ chỉ chuột trong tiếng ta và tiếng tây (Nga, Anh). Về số lượngta có bảng sau đây:

Xem ra, trong cảm nhận của cả ba dân tộc, chuột gây cho ta ấn tượng tiêu cựcnhiều hơn. Nghĩa tốt, tích cực là quá ít. Đủ biết thái độ chung là tương đối đồng nhất. Nhưng đi vào cụ thể thì có sự khác biệt lớn. Trong khi với người Nga, chuột là hình ảnh của một người yếm thế, lặng lẽ, âm thầm, đáng thươngthì với người Anh, nó nổil ên như một đại diện cho kẻ có tâm địa phản phúc: bội ước, thất tín, đào ngũ, chó săn, chỉ điểm, nội gián. Với người Việt nó là biểu tượng cho nhiều thói ti tiệntrong nhân cách. Thế mới biết, cũng như từ ngữ chỉ những con vật tương đương, nhưng trong mỗi nền văn hoá, những từ ngữ đó lại hàm chứa những cách tri nhận rất khác nhau.

Nguồn: Ngôn ngữ & Đời sống, số 1 + 2 - 2008, tr 42

Xem Thêm

Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam: Kiểm điểm, đánh giá chất lượng Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025
Ngày 12/12, Đảng bộ Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị kiểm điểm đối với tập thể, cá nhân Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025. Đồng chí Phạm Ngọc Linh, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Phó Chủ tịch Liên hiệp hội Việt Nam chủ trì Hội nghị. Tham dự có đồng chí Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam cùng các đồng chí trong BCH Đảng bộ.
Chủ tịch Phan Xuân Dũng dẫn đoàn Việt Nam tham dự Triển lãm quốc tế về Sáng tạo khoa học công nghệ (SIIF 2025) tại Seoul
Từ ngày 3-7/12, Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) được tổ chức tại thủ đô Seoul, Hàn Quốc. Theo lời mời của Hiệp hội Xúc tiến sáng chế Hàn Quốc (KIPA), Quỹ Sáng tạo kỹ thuật Việt Nam (VIFOTEC) đã thành lập đoàn tham gia Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) do TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam, Chủ tịch Quỹ VIFOTEC - làm trưởng đoàn.
Tìm giải pháp truyền thông đột phá cho phát triển khoa học công nghệ
Nghị quyết 57-NQ/TW xác định vị thế khoa học, công nghệ và chuyển đổi số là chìa khóa để Việt Nam vươn mình, trở thành quốc gia phát triển. Giới chuyên gia đưa ra lộ trình cụ thể giúp truyền thông chính sách thành hành động, từ xây dựng tòa soạn thông minh đến phát triển hệ sinh thái nội dung số.
Liên hiệp Hội Việt Nam tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ
Chiều ngày 09/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức buổi tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ. Đây là hoạt động tiếp nối tinh thần của Lễ phát động ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên do Liên hiệp Hội Việt Nam tổ chức vào ngày 24/11 vừa qua.
Trí thức Việt Nam đồng hành cùng tương lai Xanh
Đội ngũ trí thức Việt Nam luôn đóng vai trò then chốt với những đóng góp trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo, tư vấn chính sách và truyền cảm hứng cộng đồng. Những chuyển động mạnh mẽ về khoa học môi trường, năng lượng sạch, kinh tế tuần hoàn và công nghệ xanh trong thời gian qua có dấu ấn đậm nét của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ nước ta…
Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
Sáng ngày 05/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Nữ trí thức Việt Nam (VAFIW) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo”.
Các nhà khoa học giao lưu, thuyết giảng tại trường đại học
Từ trí tuệ nhân tạo (AI), vật liệu bán dẫn hữu cơ, công nghệ y học đến biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học… những buổi trò chuyện không chỉ mở rộng tri thức chuyên sâu mà còn truyền cảm hứng mạnh mẽ về hành trình chinh phục khoa học cho hàng nghìn sinh viên và giảng viên cả nước.