Chữ Nôm-sản phẩm trí tuệ Việt Nam 1000 tuổi
Hành trình chữ Nôm
Nền văn hóa Việt Nam trong lịch sử mấy ngàn năm đã được tạo nên bởi yếu tố nội sinh lại vừa có yếu tố ngoại nhập trên cơ sở tiếp thu một cách có sáng tạo văn hóa nước ngoài. Người Việt Nam đã dựa trên các ký tự chữ Hán sáng tạo nên chữ Nôm để ghi âm tiếng Việt, tiếng Tày, Nùng, Mông, Dao. Cứ liệu sớm nhất về chữ Nôm Việt xuất hiện trên bài văn khắc trên quả chuông Văn Bản năm 1076-thời Lý Nhân Tông đến thế kỷ XI. Ban đầu chữ Nôm chỉ dùng để ghi tên người và tên đất, nhưng càng về sau, chữ Nôm càng trở nên phổ biến trong đời sống văn hóa của đất nước.
Đối với lịch sử văn học, chữ Nôm có một vai trò đặc biệt quan trọng, tạo nên nền văn học chữ Nôm với nhiều thành tựu rực rỡ trong nhiều thế kỷ. Từ chữ Nôm, nền văn học Việt Namsinh ra ba thể loại độc đáo của riêng Việt Nam . Đó là Truyện thơ Nôm(lục bát), Ngâm khúc(song thất lục bát) và Hát nói(trong ca trù). Có thể kể ra các tác phẩm chữ Nôm của Việt Nam như: Quốc âm thi tập(Nguyễn Trãi), Truyện Kiều(Nguyễn Du), Chinh phụ ngâm(Đoàn Thị Điểm), Cung oán ngâm khúc(Nguyễn Gia Thiều), Lục Vân Tiên(Nguyễn Đình Chiểu)... Hiện Viện nghiên cứu Hán Nôm đang lưu trữ 1.559 đơn vị tài liệu chữ Nôm Việt và khoảng vài ngàn bản sách chữ Hán Nôm của các dân tộc miền núi phía Bắc, bao gồm nhiều mảng nội dung liên quan đến: Tư tưởng, Triết học, Văn học, Ngôn ngữ, Luật pháp, Đạo đức, Y học... Những tài liệu này có một giá trị đặc biệt trong việc nghiên cứu về mọi mặt đời sống của các dân tộc ở Việt Nam trong quá khứ.
Trong di sản chữ Nôm còn lại đến ngày nay còn có các bản rập ngự bút của chúa Trịnh Sâm tại động Hương Tích, ngự bút của Lê Hy Tông tại chùa Đậu (Hà Tây) và bốn bản ngự bút của vua Lê Dụ Tông. 4 bài thơ thất ngôn bát cú được viết bằng bút pháp vô cùng khoáng đạt do đích thân vua Lê Dụ Tông ngự đề ở các chùa nơi ông từng thăm qua. Ngoài ra, chữ Nôm được dùng trong tranh dân gian Đông Hồ, các dòng chữ Nôm đề ở góc bức tranh còn khá bí ẩn, nó như một phần trang trí thêm và đôi khi tưởng như một cách lấp bớt những khiếm khuyết trong bố cục tranh. Đặc biệt, ngày nay chúng ta còn lưu giữ nguyên bản cuốn từ điển Hán-Nôm cổ nhất Việt Nam, được soạn trong thế kỷ XVII giải thích 3.394 mục từ ngữ Hán sang Nôm theo lối có vần, chủ yếu là thơ lục bát.
Theo GS-TS Nguyễn Quang Hồng (Viện Nghiên cứu Hán-Nôm)-người đã có hàng chục năm nghiên cứu một phương cách để vi tính hóa thứ chữ rất khó nhớ, khó học này thì chữ Nôm có lịch sử khoảng 1000 năm nay. Thế kỷ XI, nó mới chỉ có dấu hiệu ra đời, thì đến thế kỷ XIII, XIV đã đóng vai trò thực sự là một văn tự. Chữ Nôm viết trên giấy bản, viết tay hoặc khắc in trên bia, bi ký, chuông... rải rác trong dân gian, ở các tư gia và chủ yếu là các di tích.
Chữ Nôm ngàn tuổi
Có lịch sử ngót 1000 năm và đóng vai trò quan trọng trong nhiều giai đoạn quan trọng của lịch sử nền văn hóa của dân tộc, nhưng chữ Nôm-chữ viết đầu tiên ghi âm tiếng Việt đang trở nên xa lạ với người Việt... Số người biết chữ Nôm hiện nay còn ít hơn biết chữ Hán. Cũng theo GS.TS Nguyễn Quang Hồng, để tìm lại một vị trí nào đó của chữ Nôm trong đời sống văn hóa hiện đại, trước hết về quan điểm, chúng ta không được phép coi chữ Nôm chỉ đơn thuần là di sản cần khai thác để biết cha ông ta gửi gắm cho thế hệ sau những gì, mà cần phải phổ biến cho người dân càng nhiều càng tốt, nhất là lớp người trẻ. Vì bảo tồn chữ Nôm không phải trong các kho lưu trữ, mà là đưa nó đến người sử dụng.
Người Nhật, người Trung Quốc tại sao không bỏ chữ tượng hình chuyển sang chữ La-tinh?! Đâu phải vì họ không đủ trí tuệ để làm việc đó mà lý do chính là bởi họ thấy chữ biểu ý thích hợp cho việc phân biệt nghĩa bằng mắt. Ở Việt Nam, để chữ Nôm được bảo tồn, nên chăng trong các di tích hoặc thắng cảnh có những hạng mục xây mới hoặc tu sửa, thì ngoài chữ Hán sử dụng để đề các bia, đối, nên sử dụng chữ Nôm thay vì sử dụng chữ Quốc ngữ. Tóm lại, để giới trẻ không thờ ơ với chữ Nôm, cần phải chứng tỏ vai trò của chữ Nôm trong nhiều lĩnh vực. Mặt khác chúng ta có thể lưu trữ chữ Nôm bằng máy vi tính. Cần thu gom các chữ Nôm từ trước đến nay rồi mã hóa theo tiêu chuẩn quốc tế. Đây là kinh nghiệm, mối quan tâm chung của các dân tộc sử dụng chữ ô vuông. Người Trung Quốc đã nghĩ ra cách tin học hóa chữ viết của họ, để có thể dùng đánh lên máy vi tính. Ở ta, nhà nghiên cứu trẻ là Phạm Anh Dũng ở Huế đã nghĩ ra cách mã hóa chữ Nôm. Nhưng sử dụng hình thức này đều mới chỉ phục vụ các đối tượng trong nước, hiện quốc tế không sử dụng được. Góp vào kho chữ biểu ý ấy, hiện chúng ta đã có được 10.000 chữ Nôm (trong số khoảng 1,5 vạn chữ)-một di sản đáng được nhìn nhận một cách tự hào...
Nguồn: quandoinhandan.org.vn, 17/07/2006