Cây Chóc máu tầu
Cây nói trên có tên khoa học là Salacia chinensisL, thuộc họ Dây gối (Celastraceae). Chi Salacia ở Việt Nam có 14 loài, đều có tên chung là Chóc máu hay Chóp máu. Tên các loài trong chi chỉ khác nhau bởi thêm một tính ngữ đi kèm. Theo Phạm Hoàng Hộ (1992), loài Salacia chinensis L được gọi là Chóp máu Trung Quốc. Theo Danh lục các loài thực vật Việt Nam II, (2003), thì gọi là “Chóc máu tầu”.
Đây là cây bụi cao 2 - 3 m, cành nhỏ có cạnh, nhẵn. Lá mọc đối, phiến lá dai, thon, dài 5 - 10 cm, rộng 3 - 5 cm, gân phụ 6 - 8 cặp, mép lá có răng nhỏ. Hoa nhỏ, ở nách lá mùi thơm nhẹ, cuống hoa dài 5 - 6 mm, cánh hoa vàng nhạt, cao 6 mm, đĩa mật to, nhị 3, bầu 3 ngăn. Quả mọng hình qủa lê, sau tròn dần, khi chín màu đen, cao 13 - 15 mm, chứa 1 - 2 hạt.
Ở Việt Nam, cây Chóc máu tầu mọc rải rác trong rừng thưa hoặc rừng thứ sinh ở Lạng Sơn (Đồng Đăng), Bắc Giang (Kép), Quảng Ninh (Quảng Yên), Ninh Bình , Quảng Trị, Đà Nẵng, Thừa Thiên - Huế (Vườn quốc gia Bạch Mã, Hương Thọ, Hương Trà), Ninh Thuận, Đắc Lắc, Đồng Nai (Biên Hoà), Kiên Giang (Phú Quốc).
Ngoài ra, nó còn phân bố ở Ấn Độ, Myanmar, Thái Lan, Trung Quốc, Lào, Malaysia, Indonesia và Philipines.
Cây Chóc máu tầu đã được các nhà khoa học nước ngoài nghiên cứu về hoá học và thử tác dụng sinh học trong phòng thí nghiệm. Morikawa T và cộng sự (Trường Đại học Dược Kyoto, Nhật Bản) đã tách chiết từ thân cây Chóc máu tầu lấy từ Thái Lan được 3 triterpen mới kiểu friedelan la salason A, B và C; một triterpen mới kiểu norfriedelan là salaquinon A; và một sesquiterpen mới kiểu eudesman là salasol A. Ngoài ra, người ta còn tìm thấy 6 chất nữa là 3 bêta, 22 betadihydroxyolean - 12 - en - 29 - oic axit, tingenone, tingenine B, regoel A, triptocalline A và mangiferin (Nguồn: J Nat Prod, 2003, 66 (9): 1191 - 1196).
Theo C, Hansakul và cộng sự thì chất chiết bằng cồn n - butanol từ thân cây Chóc máu tầu có tác dụng dãn mạch, hạ huyết áp trên chuột thí nghiệm (nguồn: III WOCMAP Congress on Medicinal and Aromatic Plants - Vol. 4: Targeted Screening of Medicinal and Aromatic Plants, Economic and Law).
Ở Việt Nam , chưa thấy công trình nghiên cứu về cây này. Chỉ có một thông tin trong cuốn Tự điển cây thuốcviết “dùng rễ sắc uống chữa phong thấp, đau lưng, cơ thể suy nhược” (Võ Văn Chi, 1997, trang 236).
Theo các tin nói trên thì cây này “có khả năng hạn chế sự phát triển của tế bào ung thư” (SGGP, không dẫn tài liệu gốc), hoặc “theo các công trình nghiên cứu y học ở Nhật Bản, loài cây này chứa một hoạt chất có tác dụng điều trị bệnh tiểu đường” (không dẫn tài liệu gốc).
Về mức độ tin cậy, khi các nguồn tin không dẫn tài liệu gốc, tức là những căn cứ khoa học, thì chưa đủ tin cậy, cần thận trọng. Tác dụng của cây Chóc máu tầu cần được kiểm chứng, xác minh và đặc biệt cần kiểm tra độc tính trước khi sử dụng.