Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 05/05/2006 22:39 (GMT+7)

Bùi Kỷ - một nhân cách đẹp

Là nhà khoa bảng nổi danh, Bùi Kỷ chẳng những không ra làm quan cai trị mà khước từ cả chức huấn đạo.

Năm 1912 ông được chọn sang Paris học trường Thuộc địa (École coloniale). Nhưng ở Pháp ông “ông chơi nhiều hơn học”, chỉ thăm thú nhiều nơi, thường giao du với nhóm Phan Châu Trinh- Phan Văn Trường…

Hai năm sau, đoàn du học trở về nước. Hầu hết đều ra làm quan, riêng Bùi Kỷ vẫn khước từ sự bổ nhiệm của Thống sứ Bắc Kỳ hồi đó. Ông đưa gia đình ra Hà Nội tổ chức kinh doanh xuất khẩu hàng tre đan. Năm 1914 bùng nổ chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Năm sau Bùi Kỷ tìm cách sang Quảng Châu “chắc không phải chỉ để chu du hay kinh doanh, mà còn có mục đích thăm dò tìm chọn một cách ứng sử trước thời thế”

Bùi Kỷ trở về Hà Nội năm 1917. Ba mươi tuổi ông bắt tay vào những hoạt động văn hoá một cách khiêm tốn nhất: kí hợp đồng với trường cao đẳng sư phạm và cao đẳng pháp chính, làm thầy dạy hai môn Hán văn và Việt văn.

Sau này nhà báo nhân dân Nguyễn Lân còn kể lại rằng: “Ở trường Cao đẳng sư phạm hồi ấy, trong đám thầy Tây, cô Đầm, chỉ có một giáo sư người Việt dạy tiếng Việt là cụ Bùi Kỷ, đội khăn xếp, mặc áo the, chuyên gọi học trò là “các ông”. Cụ giảng rất sâu, kiến thức rất rộng. chúng tôi vô cùng kính phục”.

Khoảng năm 1932 về sau, cụ Bùi Kỷ dạy cho hai trường tư thục Thăng Long và Văn Lang, cùng với các giáo sư nổi tiếng như Phan Thanh, Hoàng Minh Giám, Đặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp…

Dạy Hán văn và Việt văn là một phương tiện giúp cho học sinh trong chế độ thực dân tránh khỏi nguy cơ bị cắt đứt liên hệ với giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc. Ngoài việc dạy học, ông còn dành nhiều thời gian chuyển tải cho đời những kiến thức văn hoá cổ truyền của dân gian Việt Nam.

Ông cùng với học giả Trần Trọng Kim khảo cứu, chú thích Truyện kiều. Sau đó ông viết văn bia Nguyễn Du và đọc trong lễ kỉ niệm 105 năm ngày giỗ thi hào Nguyễn Du, ngày 10-8-1925 tại nhà Khai Trí Tiến Đức. Bùi kỷ còn viết sách Quốc văn cụ thểnăm 1932, cùng với Trần Văn Giáp viết sách Hán văn tinh tháidiễn giảng, cùng với Trần trọng Kim và Phạm Duy Khiêm viết Việt Nam văn phạm bậc trung học(1940).

Đáng kể hơn nữa về công lao văn hoá Bùi Kỷ là ông đã hiệu khảo lại các cuốn sách chữ nôm như Trê cóc, Trinh thử, Lục súc danh công, Hoa điểu tranh nănglà những tác phẩm cổ xưa trong kho tàng văn học dân gian nước ta.

Trong khối lượng sáng tác của ông phải kể đến bài thân thể luận với giá trị văn hoá cao, có thể coi là tiêu biểu cho quan điểm triết học và nhân cách Bùi Kỷ: thân là mình, thể là đời, gồm cả sự trạng và cảnh ngộ trong một cõi nhân sinh gọi là thân thể (…) Có thân tất có thế. Có thế tất có thân… Hoá nhi sinh ra thân, bày ra thế để làm gì? Vì thế phật gia cho là nghiệp chướng. Lão gia cho là kí sinh (sống gửi)… Phật gia đem tịch để xí xoá đi. Hai lí thuyết ấy không phải là không cao, xong dùng để thực hành thì hoang đản quá. Nếu thân thế hoá được thì càn khôn lặng ngắt, vũ trụ im tờ… nếu thân thế là quên được thì tổ tiên là tuồng hề, hình hài là gỗ đá, mặt đường không cao không thấp, dòng nước không đục không trong… phong trần tang hải nhắc chung một giấc tràng miên (giấc ngủ dài), trung hiếu gian tà chôn lẫn cánh đồng vô chủ… Vậy ta bây giờ bàn đến thân thế thiết tưởng cái lí thuyết của Nho giáo có phần thích hợp với sự thực hành… Giàu sang không phải là sướng, nghèo hèn không phải là khổ, thất bại không phải là nhục, thắng lợi không phải là vinh, cốt tự mình xét mình, tự mình hỏi mình, trong không điều gì hổ thẹn, ngoài không điều gì sai lầm, noi theo đạo đức nhân nghĩa, để hàm dưỡng lấy tinh thần, luyện tập nên nhân cách, cho bản lĩnh ngày một bền, thao thủ ngày một vững, bao giờ đến bậc “phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” thì cái công tu dưỡng mới hoàn toàn…Gặp thời mà thi thố cái chí nguyện của mình thì chữ “đạt” là vui thích. Không gặp thời thì cố hết sức lấy chữ minh triết làm cốt, dẫu đời không biết mà vẫn có cái giá thanh cao thì chữ “cùng” lại là vui thích…” (Ntr. trang 79-83).

Nhân cách đẹp của Bùi Kỷ được giữ vững từ khi xuất thế đến cuối cuộc đời.

Trước cách mạng tháng tám năm 1945, cụ Bùi Kỷ trở lại quê nhà ở làng Châu Cầu, huyện Ý Yên tỉnh NAm Định, tham gia phong trào xoá nạn mù chữ. Cụ đã biên soạn thêm cuốn Tiểu học Việt Nam văn phạmđể góp phần thúc đẩy phong trào này. Cuộc đảo chính Nhật- Pháp tháng 3-1945, chính phủ bù nhìn do Nhật dựng nên đã gợi trong thơ Bùi Kỷ một phong vị thơ trào phúng mới. Cụ viết bài phường chèo:

Áo xiêm lụng thụng cũng ê chề

Mỗi một trò ra một lũ hề

Cười khóc mặt kia thường giả dối

Gian ngay vai ấy mặc khen chê.

…….

Là một nhân sĩ yêu nước, tuy chưa kịp tham gia Việt Minh từ thời tiền khởi nghĩa, nhưng nhân cách đẹp của Bùi Kỷ đã thể hiện khi lịch sử sang trang. Cụ đã được mời ra làm Chủ tịch hội Liên Việt , Chủ tịch Hội Văn hoá cứu quốc, rồi Uỷ viên Uỷ ban kháng chiến hành chính liên khu III.

Ở những nơi cơ quan liên khu đóng, có lúc sơ tán tránh địch, như Ninh Bình, Thanh Hoá, Hoà Bình…người ta gặp một cụ già hiền hậu, có chòm dâu thưa mà trẻ em thương hay gieo gọi là “cụ Hồ” đó là cụ Bùi Kỷ,

Trong kháng chiến cụ Bùi làm nhiều thơ. Có thể trích hai câu trong bài hoạ thơ bạn:

Kháng chiến gian lao vô đạn lão

Hiệu lao báo quốc cảm ngôn luân.

(Kháng chiến gian lao già chẳng ngại.

mảy may báo trước đáng công a?)

                      (Nguyễn Văn Huyền dịch)

Kháng chiến sắp thành công, cụ Bùi tham gia chỉnh huấn và có dịp gặp mặt Hồ Chủ tịch. Cụ đã nhắc lại kỉ niệm gặp Nguyễn Ái Quốc tai nhà Phan Chu Trinh ở Paris, Hồ Chủ Tịch cười bảo : “Phải,và chỉ có một lần ấy thôi”.

Đúng là thời ấy, (trước 1917) Bác Hồ còn rất ít đi lại.

Kháng chiến thành công, cụ Bùi Kỷ được Hồ Chủ tịch mời lên Thủ đô Hà Nội đảm nhận công tác, tham gia Đoàn Chủ Tịch mặt trận tổ quốc Việt Nam, tham gia Uỷ ban bảo vệ hoà bình thế giới của Việt Nam, và làm Hội trưởng Hội Việt – Trung hữu nghị. Trong cương vị mới, cụ Bùi hai lần sang Trung Quốc thắt chặt tình hữu nghị giữa hai dân tộc. Trên đất bạn, cụ đã để lại nhiều bài thơ, trong đó có bài viếng mộ liệt sĩ Phạm Hồng Thái :

Anh phong suy nhập Châu Giang thuỷ

Trường dữ nhân gian tẩy bất bình

(Khí hùng hoà nhập dòng châu thuỷ

Mãi với nhân gian rửa bất bình)

                                          NVH dịch

Trong công việc bề bộn với nhiều chức vụ đối nội, đối ngoại của một nhân sĩ tích cực, cụ Bùi Kỷ không ngừng tham gia hoạt động văn hoá. Cụ đã tham gia hiệu đính và giới thiệu một loạt các tác phẩm cổ điển Việt Nam như Truyền kì mạn lục, cùng với các cụ Phan Võ, Nguyễn Khắc Hanh dịch thơ chữ Hán của Nguyễn Du, tham gia hiệu đính hai tác phẩm đồ sộ: Tam quốc diễn nghĩaHồng lâu mộng.

Trong tuổi già nhà văn hoá Bùi Kỷ vẫn chưa muốn nghỉ ngơi. Trên giường bệnh năm 1960, cụ đã viết xong bài trường ca kỉ nguyên mới gồm 344 câu:

…Cuộc cách mạng bấy lâu mơ ước                

Bừng đất trời sáng rực núi sông

Vĩ đại thay Đảng tiền phong

Nức danh tám cõi, ghi công muôn đời!...

Chẳng bao lâu cụ đã vĩnh biệt cõi đời trong tuổi 73, trùng vào ngày kỉ niệm 70 năm sinh của Hồ Chủ tịch: 19-5-1960. Hai ngày trước đó cụ đã gượng dậy viết bốn câu thơ chúc thọ Bác Hồ:

Kính thướng Hồ Chủ Tịch :

Dân tộc anh hùng bách luyện thân

Lão lai anh mẫn tráng tinh thần

Nhân sư đạo đức quang thiên địa

Bồi dương giang sơn bất lão xuân

Kỷ sở dĩ đắc hữu kim nhật, giai do

Chủ tịch giáo dục chi công. Cẩn hữu

tứ thuyết, liêu dương chúc từ.

                                       Kỷ bái

( Nhất cửu lục linh, nhũ nguyệt, thập nhất)

Dịch như sau:

Kính dâng Hồ Chủ tịch:

Anh hùng dân tộc luyện thân

Tuổi già mà vẫn tinh thần hơn ai

Bốn phương đạo đức sáng ngời

Non sông vun đắp đời đời thanh xuân.

Kỷ tôi sở dĩ có được như ngày hôm nay đều do công giáo dục của Chủ tịch. Xin có bốn câu thơ vụng về tạm làm lời chúc.

                                                Kỷ kính bút 17-5-1960.

Nguồn: Xưa và Nay, số 83, tháng1-2001.

Xem Thêm

Hà Giang: Hội thảo quản lý sử dụng, giải pháp nhân rộng 2 mô hình KHCN tiêu biểu
Ngày 04/4/2024, tại Hà Giang, Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Hà Giang phối hợp với Viện Dân số, Sức khỏe và Phát triển (PHAD) - Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học “Đánh giá công tác quản lý, sử dụng mô hình nhà tiêu sinh học (NTSH) không dùng nước; hệ thống cấp nước sạch và nước uống trực tiếp (mô hình nước uống học đường - NUHĐ).

Tin mới

Công đoàn VUSTA hướng về Điện Biên
Chiến thắng Điện Biên Phủ là một “Dấu mốc bằng vàng chói lọi" trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta. Mảnh đất cuối trời Tây Bắc – nơi ghi dấu ấn của chiến thắng lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu là nơi là người dân cả nước những ngày này luôn hướng về với niềm tự hào và tri ân sâu sắc.
Những trí thức đã góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Đó là thắng lợi của sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Bác Hồ. Làm nên thắng lợi đó, có những đóng góp tâm sức và trí tuệ quý báu của đội ngũ trí thức, của các nhà khoa học ở nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau.
Điện Biên Phủ: Điểm hẹn lịch sử
Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam phối hợp với Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước tổ chức khai mạc Triển lãm “Điện Biên Phủ - Điểm hẹn lịch sử”, kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954 / 7-5-2024).