Bảo vệ môi trường nuôi trồng thủy sản ở đồng bằng sông Cửu Long
Các mô hình nuôi trồng thuỷ sản ở đồng bằng sông Cửu Long chuyển hoá rất nhanh, từ nuôi tự nhiên, nuôi quảng canh, nuôi phân tán mật độ thấp... sang nuôi bán thâm canh, nuôi thâm canh, nuôi công nghiệp tập trung mật độ cao. Việc tiếp cận các phương thức nuôi trồng, sử dụng nhiều năng lượng và chi phí... tác động tiêu cực đến môi trường, nếu không được xử lý triệt để có thể tạo ra sự mất cân bằng của hệ thống sinh thái tự nhiên ảnh hưởng không nhỏ đến nuôi trồng thuỷ sản. Một điều hết sức quan trọng là, với các mô hình nuôi thâm canh càng cao, quy mô công nghiệp càng lớn thì lượng chất thải lại càng lớn và mức độ nguy hại càng nhiều và vấn đề mất cân bằng sinh thái càng trở nên trầm trọng.
Theo đánh giá của các nhà khoa học, hàng năm thải ra 456,6 triệu m3/bùn thải (phù sa lắng đọng trong chất thải) và chất thải nuôi trồng thuỷ sản mà trong đó riêng chất thải nuôi cá Tra, cá Ba Sa đã trên 2 triệu tấn/năm. Nguồn chất thải độc hại này hiện nay vẫn chưa được xử lý triệt để, vẫn tiếp tục thải vào sông rạch trong khu vực. Các chất thải nuôi trồng thuỷ sản là các nguồn thức ăn dư thừa thối rữa bị phân hủy; các chất tồn dư sử dụng như hóa chất và thuốc kháng sinh, vôi và các loại khoáng chất Diatomit, Dolomit, lưu huỳnh lắng đọng, các chất độc hại có trong đất phèn Fe 2+, Fe 3+, Al 3+, SO 42-. Các thành phần độc hại chứa trong bùn thải như H 2S 1, NH 3... là sản phẩm của quá trình phân hủy yếm khí ở bùn đáy ao nuôi tạo thành, đặc biệt là nguồn bùn phù sa lắng đọng trong các ao nuôi trồng thủy sản thải ra hàng năm trong quá trình vệ sinh và nạo vét ao nuôi. Trong thức ăn nuôi trồng thuỷ sản chỉ có 170 trọng lượng khô của thức ăn được chuyển thành sinh khối, phần còn lại được thải ra môi trường dưới dạng phân và chất hữu cơ dư thừa thối rữa vào môi trường. Chất thải ao nuôi công nghiệp có thể chứa đến trên 45% Nitrogen và 22% là các chất hữu cơ khác, là nguồn có thể gây ô nhiễm môi trường và dịch bệnh thủy sản phát sinh trong môi trường nước.
Hiện nay, vấn đề quản lý và xử lý nguồn bùn thải, chất thải nuôi trồng thuỷ sản còn rất hạn chế, chưa đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường, đây là vấn đề hết sức bức xúc trong nuôi trồng thủy sản ở khu vực ĐBSCL. Mất cân bằng sinh thái trong nuôi trồng thuỷ sản thể hiện rõ nét ở vấn đề dịch bệnh phát sinh trên diện rộng do ô nhiễm môi trường ở các mô hình nuôi thâm canh cá Tra, cá Ba sa... chết hàng loạt ở một số chủ nuôi cá bè trên sông ở vùng nước ngọt, dịch bệnh tôm nuôi đã phát sinh trên 20 - 60% diện tích nuôi ở các tỉnh ven biển Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng... làm tổn thất kinh tế rất lớn với nghề nuôi tôm nước mặn. Hậu quả nuôi trồng thuỷ sản bị dịch bệnh, ô nhiễm môi trường chết hàng loạt đã diễn ra nhiều năm, kéo theo nhiều hộ nông dân, trang trại nuôi trồng thuỷ sản, một số doanh nghiệp quy mô lớn... đã phải lâm vào cảnh điêu đứng do nợ nần vay vốn đầu tư, một số nơi diện tích nuôi thuỷ sản phải bỏ hoang do bị ô nhiễm môi trường và dịch bệnh phát sinh mà chưa khắc phục được. Môi trường nước trên sông Tiền, sông Hậu và các kênh rạch vùng ngọt hoá đã có dấu hiệu nhiễm bẩn hữu cơ, các vi sinh trong nước, Coliforms, độ đục, amoniac trong nước... ảnh hưởng đến chất lượng môi trường nước. Môi trường nước ở vùng mặn hóa ven biển hàm lượng sắt trong nước tăng cao do quá trình phèn hóa mạnh, độ đục môi trường cao do nước phù sa và quá trình đào đắp sên vét ao nuôi tôm phát sinh. Quá trình chuyển dịch nuôi trồng thủy sản diễn ra quy mô lớn ở vùng mặn hóa ven biển làm gia tăng xâm nhập mặn ở các vùng ven biển chưa kiểm soát được chặt chẽ, tác động đến các hệ sinh thái nước ngọt trong khu vực.
Để đảm bảo phát triển lợi thế ngành nuôi trồng thuỷ sản ở ĐBSCL trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, theo chúng tôi cần thực hiện các giải pháp cơ bản sau đây: Nhanh chóng hoàn thiện quy hoạch môi trường trên cơ sở phân vùng sinh thái nhạy cảm với các vùng tiềm năng trong phát triển các mô hình canh tác thuỷ sản nước mặn, nước ngọt và nước lợ… theo các cấp độ từ thấp tới cao như nuôi trồng thủy sản tự nhiên, mật độ thấp, mô hình hợp sinh thái… cho đến nuôi thâm canh, nuôi công nghiệp để đảm bảo cho phát triển lâu dài và bền vững nuôi trồng thủy sản ở ĐBSCL. Quy hoạch thủy sản phải gắn liền với quy hoạch môi trường trong các hệ canh tác của các loại mô hình nuôi trồng thủy sản. Ở các mô hình nuôi trồng thủy sản tự nhiên, nuôi mật độ thấp, mô hình nuôi sinh thái… có khả năng tự làm sạch cao vừa giữ được cân bằng sinh thái vừa tạo ra sản phẩm sạch với chất lượng cao. Đối với các mô hình nuôi trồng thủy sản thâm canh và công nghiệp cần tập trung giải quyết vấn đề xử lý nước cấp, quản lý chất lượng nước và xử lý chất thải nuôi trồng thủy sản và quản lý dịch hại tổng hợp trong các mô hình canh tác. Trong thực tiễn sản xuất, một số công ty có tiềm lực về vốn đầu tư, kỹ thuật công nghệ nuôi trồng thủy sản, đã xác lập được các mô hình nuôi thủy sản công nghiệp, nhưng vẫn xử lý được các vấn đề chất thải phát sinh đáp ứng tiêu chuẩn môi trường. Trong nuôi thâm canh, nuôi công nghiệp, vấn đề bảo vệ môi trường cần tập trung xử lý chất thải nuôi trồng thủy sản bằng các giải pháp như: Dùng các chế phẩm sinh học để xử lý triệt để các thành phần độc hại ô nhiễm có trong nước thải, chất thải thành các chất an toàn sinh thái. Các chế phẩm sinh học này là các vi khuẩn yếm khí, hiếu khí, các xạ khuẩn, nấm men… để xử lý lượng thức ăn dư thừa, các chất thải trong ao nuôi, các nguồn bùn cặn đáy ao nuôi, đảm bảo sự cân bằng chất lượng nước trong nuôi trồng thủy sản. Sử dụng biofilm, các thảm vi sinh vật (microbial mat) để hấp thụ các chất dinh dưỡng dư thừa trong thuỷ vực. Cần phải bố trí diện tích hợp lý để chứa bùn nạo vét ao nuôi sau vụ nuôi và được thu gom xử lý triệt để bằng vôi bột kết hợp ủ yếm khí, tuyệt đối không được bơm bùn thải và chất thải ra sông rạch khi chưa được xử lý đáp ứng tiêu chuẩn môi trường quy định.
Bảo vệ môi trường trong phát triển nuôi trồng thủy sản ở khu vực ĐBSCL là vấn đề cực kỳ quan trọng cần được giải quyết từ vấn đề quy hoạch sản xuất canh tác, phương thức canh tác gắn liền với tổ chức sản xuất canh tác nuôi trồng thuỷ sản và thị trường tiêu thụ, sản xuất nuôi trồng gắn liền với nhiệm vụ bảo vệ môi trường và quan trọng là nâng cao vai trò quản lý của nhà nước về bảo vệ môi trường đối với lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản và vai trò của cộng đồng đối với nhiệm vụ bảo vệ môi trường. Đặc biệt, đối với các phương thức canh tác thâm canh và công nghiệp phải áp dụng bắt buộc các cơ sở, chủ trang trại, doanh nghiệp .. .cần phải triệt để tuân thủ các quy định bảo vệ môi trường trong nuôi trồng thủy sản, đảm bảo sự cân bằng của tự nhiên. Nhà nước phải nhanh chóng hoàn thiện quy hoạch nuôi trồng thuỷ sản ở khu vực ĐBSCL gắn liền với quy hoạch bảo vệ môi trường trong nuôi trồng thuỷ sản và các hệ sinh thái, thực hiện tốt quy hoạch thuỷ lợi cho phát triển thuỷ sản, tăng cường tính khả thi của nhiệm vụ quan trắc và dự báo chất lượng môi trường và dịch bệnh trong nuôi trồng thuỷ sản, đồng thời nghiên cứu và phổ biến các công nghệ xử lý môi trường thích hợp, hiệu quả để giải quyết các vấn đề chất thải, đồng thời ban hành quy chế bảo vệ môi trường trong nuôi trồng thuỷ sản ở ĐBSCL.