“Bắc môn tỏa thược”
Đoạn viết trên tôi trích từ “mạng” ra. Hơn ba mươi năm trước, trong lần về tham quan cố đô Hoa Lư, tôi cũng đã được nghe người quản lý di tích nói về bốn chữ đó. Vì đi đông người và thăm nhiều nơi nên tôi không hỏi kỹ được. Tôi đã lưu tâm khi đọc lịch sử, đã hỏi han nhiều người nhưng không được biết gì hơn. Tôi đành suy luận dựa trên sử sách.
Bốn chữ trên ra đời ít nhất cách nay hàng ngàn năm, tức là từ trước ngày vua Lý Công Uẩn thiên đô ra Thăng Long. Nói thế, cũng có thể từ hàng ngàn năm trước nữa. Bởi các cuộc khởi nghĩa và kháng chiến của dân tộc ta đều là chống giặc xâm lược và chiếm đóng từ phương Bắc.
Thời vua Hùng đời thứ 6, giặc Ân đã xâm phạm bờ cõi nước ta, có thần thoại về người anh hùng sinh ra ở làng Gióng. Năm 40-43 sau Công nguyên là cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đánh đuổi quân Đông Hán. Hai trăm năm sau là cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu chống quân nhà Ngô (246-248). Ngót ba trăm năm sau, vào năm 542 là cuộc nổi dậy chống ách đô hộ của nhà Lương do Lý Bí lãnh đạo. Một trăm tám mươi năm sau, vào năm 722 là cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan chống ách chiếm đóng của nhà Đường.
Vào khoảng từ năm 766 - 779, là cuộc khởi nghĩa của Phùng Hưng chống ách cai trị hà khắc của nhà Đường. Tới năm 938, nổ ra cuộc kháng chiến oanh liệt chống quân Nam Hán xâm lược do Ngô Quyền chỉ huy với trận Bạch Đằng nổi tiếng…
Tôi đồ rằng bốn chữ “Bắc môn tỏa thược” ra đời dưới triều đại vua Lê Đại Hành. Đọc sử chúng ta biết, đầu năm 981 nhà Tống phát quân sang đánh Đại Cồ Việt. Chúng chia quân theo hai ngả. Cánh bộ theo ngả Lạng Sơn. Cánh thủy tiến vào sông Bạch Đằng. Vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) trực tiếp cầm quân đi chống giặc. Ông vốn là vị tướng tài dưới cờ vua Đinh Tiên Hoàng. Triều nhà Đinh, quân đội đã tổ chức khá quy củ. Cả nước có 10 đạo quân, Lê Hoàn được phong là Thập đạo tướng quân cai quản cả 10 đạo quân ấy. Tháng 10 năm 979, vua Đinh bị sát hại. Để chống giặc, vào tháng 7 năm 980 quân sĩ đã tôn ông lên ngôi thiên tử. Sau hai trận thắng lớn ở Bạch Đằng và Tây Kết, giết chủ tướng Hầu Nhân Bảo, bắt sống Quách Quân Biện, quân giặc tháo chạy.
Lê Đại Hành là vị vua có tài. Dẹp nội loạn, khéo bang giao giữ thể diện quốc gia không bị nước lớn chèn ép. Có thể nói, Lê Hoàn là người mở đầu và xác lập nguyên tắc cơ bản của nền ngoại giao Đại Việt. Đó là chính sách mềm dẻo, khôn khéo nhưng cương quyết. Nhà Tống là triều đại phong kiến hùng mạnh nhất châu Á đương thời đã phải từng bước thừa nhận quốc gia độc lập Đại Cồ Việt. Có lần sứ nhà Tống đòi vua quỳ nhận sắc phong, vua Lê lấy cớ đau chân không quỳ. Vua còn đề nghị nước Tống có chiếu thư cho sứ giả đến biên giới báo tin, triều đình Hoa Lư sẽ cử người lên tiếp nhận. Vua Tống cũng phải đồng ý…
Nhiều sử gia, học giả phát hiện bài thơ “Nam quốc sơn hà”, một kiệt tác văn chương cũng là bản Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam xuất hiện đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất và được Lý Thường Kiệt vận dụng trong cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ hai. Dưới triều đại Lê Hoàn còn xuất hiện một bài thơ được đánh giá như một bản Tuyên ngôn hòa bình. Nhà sư Pháp Thuận đã trả lời Vua về vận nước vắn dài trong bài thơ “Quốc tộ”. Năm 1005, Lê Hoàn qua đời thọ 65 tuổi. Ông ở ngôi được 26 năm.
*
Qua thắng lợi cũng như thất bại của các cuộc chiến, ông cha ta cũng phải “tổng kết chiến tranh” và đã rút ra một kết luận mang tính chất tồn vong, sinh tử của dân tộc rằng: Cửa phía Bắc phải giữ chặt!
Từ đức Thái tổ nhà Lý thiên đô ra Thăng Long đến nay dân tộc ta cũng lại đã phải trải qua 6 cuộc chiến lớn chống giặc từ phương Bắc: Lý - Tống (1077); Trần - Nguyên Mông 3 lần (1258, 1285, 1288); Lê - Minh (1427); Quang Trung - Thanh (1789).
“Bắc môn tỏa thược”: Lời của cha ông như còn văng vẳng bên tai!