Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 13/09/2011 20:25 (GMT+7)

Ảnh hưởng của biến đối khí hậu đến giao thông vận tải và giải pháp ứng phó

Tác động của biến đổi khí hậu tới các loại hình vận tải

Việt Nam có bờ biển dài hơn 3.260 km, hơn 1 triệu km2 lãnh hải, trên 3.000 hòn đảo gần bờ và hai quần đảo xa bờ, nhiều vùng đất thấp ven biển. Những vùng này hằng năm phải chịu ngập lụt nặng nề trong mùa mưa và hạn hán, xâm nhập mặn trong mùa khô. BĐKH và nước biển dâng sẽ làm trầm trọng thêm với những tác động tiêu cực ở những vùng này, tăng diện tích ngập lụt, gây khó khăn cho thoát nước, tăng xói lở bờ biển, ảnh hưởng đến các công trình xây dựng ven biển, như: Đê điều, đường giao thông, các bến cảng. Mỗi khi có cơn bão, lũ lụt, hạn hán triều cường… nhiều hệ thống giao thông đường bộ, thủy, sắt bị ảnh hưởng nặng nề. Theo đánh giá của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), BĐKH có tác động lớn tới các công trình giao thông. Khi mực nước biển dâng cao sẽ ảnh hưởng đến nền móng công trình các cảng hàng không ven biển có cao độ từ 5m trở xuống. Theo đánh giá, sẽ có 6 cảng hàng không chiếm khoảng 20% số cảng hàng không của Việt Nam bị ảnh hưởng với thiệt hại ước khoảng 0.52 tỷ USD.

BĐKH và nước biển dâng đã gây ra sụt lún, ngập lụt nhiều tuyến giao thông: gia tăng sạt trượt, xói lở mặt, nền đường làm các phương tiện giao thông không lưu thông được, gây ách tắc, gia tăng tai nạn giao thông đường bộ. Đường xá bị cắt đứt nhiều đoạn, nhiều tuyến đường địa phương sau bão lũ hàng tuần vẫn bị ngập lụt, ách tắc, giao thông đi lại khó khăn…

Mực nước biển dâng, dòng chảy lũ gia tăng, giảm khoảng lưu không từ mặt nước dòng chảy lũ đến đáy cầu, ảnh hưởng đến sự lưu thông của các loại tàu lớn. Vào mùa mưa bão, rất nhiều bến cảng bị ngập lụt, giảm chiều cao thông thủy ảnh hưởng đến khả năng khai thác của công trình. Giao thương đi lại giữa các vùng miền biển trong và ngoài nước bị đình trệ. Mùa khô hạn làm cạn kiệt dòng chảy dẫn đến giao thông thủy bị ảnh hưởng. Hiện tượng xâm nhập mặn sẽ gia tăng, sự giao thương đi lại ở các vùng miền biển khó khăn, đời sống hàng ngày của cộng đồng địa phương bị thu hẹp nhanh chóng. Các cơ sở hạ tầng nhất là các cảng sẽ bị tác động mạnh, thậm chí phải xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp hoặc di dời…

Trong GTVT hàng không và các hoạt động của phương tiện mặt đất tại các sân bay lớn có thể gây ra ô nhiễm ở mức độ cao. Hoạt động của hàng không đã và đang có yếu tố ảnh hưởng tới khí quyển theo chiều hướng không tốt và cũng bị BĐKH tác động ngược trở lại. Công nghiệp hàng không tác động không tốt đến môi trường và cũng đang bị ảnh hưởng nặng nề do BĐKH gây ra. Theo Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế (ICAO), gần 20% các vụ tai nạn hàng không trên thế giới có liên quan đến vấn đề khí hậu, thời tiết và chiếm 8% tỉ lệ tử vong. Các hiện tượng thời tiết như mưa, gió, mưa đá, bão, sấm, chớp… đều là những thử thách đối với an toàn bay. Báo cáo của ICAO cho thấy, các vụ tai nạn và những vụ việc nghiêm trọng gần đây đã nêu lên tác động tiềm tàng của hiện tượng khí hậu cực đoan đến an toàn bay.

BĐKH có nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến GTVT, một ngành tiêu thụ nhiều năng lượng và phát thải khí nhà kính không ngừng tăng lên trong tương lai khi triển khai các hoạt động nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Việc kiểm soát và hạn chế tốc độ tăng phát thải khí nhà kính đòi hỏi ngành phải đổi mới và áp dụng các công nghệ ít chất thải và công nghệ sạch.

Một số giải pháp ứng phó

GS. TSKH Nguyễn Đức Ngữ, Trung tâm Khí tượng Thủy văn và Môi trường cho biết, để giảm nhẹ khả năng bị tổn hại do BĐKH gây ra, cần có sự điều chỉnh ở các hoạt động xây dựng các kế hoạch phát động xây dựng các kế hoạch phát triển năng lượng và GTVT có tính đến các yếu tố của BĐKH. Cần nâng cấp và cải tạo các công trình GTVT ở các vùng thường bị đe dọa bởi lũ lụt, nước biển dâng, bảo đảm quản lý nhu cầu năng lượng trên cơ sở hiệu suất năng lượng cao, sử dụng tiết kiệm và hợp lý năng lượng; xây dựng chiến lược ứng phó và thích ứng với diễn biến bất thường của thời tiết…

Một trong các biện pháp được Bộ GTVT đề xuất là phải xây dựng hoàn chỉnh hệ thống đê biển. Đây là giải pháp phát triển kinh tế bền vững, khi mà cả nước đã có 2.800 km đê biển thuộc các tỉnh và thành phố bao gồm 10 huyện, thị xã đã và đang phát huy hiệu quả trong công tác phòng chống thiên tai, tạo điều kiện cho các địa phương có biển phát triển kinh tế - xã hội. Nhưng, do hệ thống đê của Việt Nam đắp bằng đất, nền lại yếu, xây dựng thiếu quy hoạch và không khoa học, nhiều tuyến di dời, đắp lại và làm mới chiếm 42,3% tổng chiều dài bờ biển Việt Nam mới chỉ chống đỡ được bão từ cấp 9 trở xuống.

Việc xây dựng hoàn chỉnh hệ thống đê biển Việt Nam không những chỉ bảo vệ an ninh cho quốc gia mà còn bảo vệ vững chắc các công trình GTVT nhằm giảm tác động của BĐKH, hạn chế bão lũ, nước biển dâng tàn phá các tỉnh, thành phố nằm ven biển và các công trình GTVT, phục vụ an sinh xã hội và phát triển kinh tế. Mặt khác, xây dựng hoàn chỉnh hệ thống đê biển ngăn chặn được nước mặn xâm nhập vào đất liền, phá hủy các công trình GTVT có nền móng nằm sâu trong lòng đất do nước mặn xâm lấn ăn mòn là rất cần thiết.

Để giảm thiểu tác hại của BĐKH ở cấp độ vĩ mô đó là trên cơ sở khoa học của các kịch bản BĐKH các nhà hoạch định chính sách cần tăng cường hợp tác quốc tế, xây dựng chương trình hành động thích ứng với BĐKH và thực thi có hiệu quả trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Ngành GTVT cần quy hoạch, thiết kế lại hệ thống hạ tầng kỹ thuật giao thông trên đất liền, trên biển và ven biển, các bến cảng, kho bãi, luồng lạch, giao thông thủy nội địa, nhất là ở các vùng đồng bằng ven biển và miền núi. Xây dựng các tiêu chuẩn, quy phạm kỹ thuật phù hợp với BĐKH. Khi phát triển GTVT ở các vùng thường bị đe dọa bởi lũ, lụt, nước biển dâng. Xây dựng công trình giao thông cần chú ý mực nước biển dâng mỗi năm khoảng 3cm, và tới năm 2100 sẽ tăng khoảng 70cm so với mực nước biển năm 1990 để lựa chọn giải pháp công trình cho phù hợp ngay từ khâu khảo sát, lập dự án. Trong điều kiện kinh tế cho phép, từng bước kiên cố hóa ta – luy hoặc trồng cây xanh, thảm thực vật để bảo vệ nền đường, mố cầu…

Bên cạnh đó, khuyến khích phát triển các loại phương tiện sử dụng ít hoặc không sử dụng nhiên liệu hóa thạch, đẩy mạnh nghiên cứu và sử dụng nhiên liệu tái tạo trong các phương tiện vận tải. Trong giao thông, nhất là giao thông nông thôn cần chú ý đến tác động của BĐKH; chú trọng các biện pháp gia cố đê biển, tiêu thoát nước khi úng ngập, nhất là vào mùa bão, lũ…

Xem Thêm

Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Ngày 25/6/2025, tại Tp. Huế, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) chủ trì, phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thành phố Huế (Liên hiệp Hội TP. Huế) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức để góp phần tích cực cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023”.
An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, tập hợp, đoàn kết trí thức KH&CN phục vụ phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới
Kể từ khi Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) được thành lập ngày 26/03/1983, Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam đã trải qua 9 kỳ Đại hội, mỗi kỳ Đại hội đã thực sự trở thành những mốc son quan trọng, đánh dấu bước phát triển cả về tư duy chính trị lẫn phương thức hoạt động của toàn hệ thống.
Hành trình phát triển văn hóa, ngôn ngữ, giáo dục bền vững của Viện CLEF
Ngày 9/7, Viện Nghiên cứu Phát triển Văn hóa, Ngôn ngữ và Giáo dục (Viện CLEF) đã tổ chức lễ kỷ niệm 5 năm thành lập. Đây là dịp để nhìn lại hành trình hình thành và phát triển của Viện, là lời tri ân sâu sắc gửi tới các đối tác, chuyên gia và cộng đồng học thuật đã luôn đồng hành, hỗ trợ và tiếp sức cho những bước tiến của Viện trong suốt thời gian qua.
Tìm giải pháp thực hiện hiệu quả các dự án viện trợ không hoàn lại
Thủ tục hành chính thực hiện và quản lý các dự án viện trợ không hoàn lại hiện nay còn phức tạp; quy trình xét duyệt, giải ngân còn chậm, ảnh hưởng đến tiến độ và sự hài lòng của đối tác; năng lực quản lý hạn chế; một số đơn vị thành viên thiếu chuyên môn về giám sát tài chính, báo cáo theo chuẩn quốc tế; biến động kinh tế, chính trị toàn cầu khiến nguồn viện trợ không ổn định....
Chủ tịch Phan Xuân Dũng tiếp xúc cử tri tỉnh Khánh Hòa sau kì họp thứ 9, Quốc hội khóa XV
Ngày 9-10/7, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Khánh Hòa gồm ông Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, bà Đàng Thị Mỹ Hương, Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh và ông Nguyễn Văn Thuận đã có các buổi tiếp xúc cử tri tại xã Bác Ái Tây và xã Phước Hà sau kì họp thứ 9, Quốc hội khóa XV.