Văn hoá Cơ-tu in dấu Trường Sơn
Dưới tác động của cuộc sống hiện đại, văn hoá truyền thống của nhiều tộc người đang đứng trước những thử thách là liệu có giữ gìn được những di sản tích luỹ từ lâu đời hay để vốn quý đó mai một dần. May mắn thay, trong khi nhiều dân tộc cùng cư trú ở vùng núi Trường Sơn – Tây Nguyên đã và đang đánh mất những nét độc đáo của tộc người mình thì cộng đồng Cơ-tu nơi đây vẫn còn giữ được nhiều vốn quý từ ngàn xưa để lại.
Nếu so sánh với các dân tộc ở phía tây-nam của tỉnh như Xơ-đăng, Giẻ-Triêng, văn hoá của họ là một phần không tách rời của vùng Bắc Tây Nguyên thì văn hoá Cơ-tu nổi bật lên với những sắc màu riêng biệt. Đó là yếu tố nguyên gốc hầu như không quá pha tạp với văn hoá của tộc người khác: từ kiến trúc, lễ hội, trang phục, nghề thủ công cổ truyền, nếp sống, phong tục… Văn hoá Cơ-tu như kho tàng giàu đẹp, vừa giấu kín nhiều bí ẩn, vừa biểu hiện với sự đa dạng, phong phú đến kinh ngạc.
Do bản sắc văn hoá của mình cộng với sự tác động từ bên ngoài nhưng chưa bị ảnh hưởng nhiều; do điều kiện kinh tế khó khăn, địa hình phức tạp nên di sản truyền thống của người Cơ-tu vẫn còn phong phú. Chính di sản văn hoá đó đã góp phần không nhỏ vào đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào hôm nay.
Nhà làng (gươl) của người Cơ-tu là tâm điểm của sự chú ý khi nói đến bảo tồn di sản văn hoá cổ truyền. Mái nhà hình mai rùa giản dị đó là nơi phát tiết những tinh hoa, là nơi giữ gìn, sản sinh những giá trị văn hoá tiêu biểu của tộc người. Dưới mái nhà gươl vẫn ấp ủ, nuôi dưỡng cái hồn của truyền thống bản địa với tiếng trống nhịp chiêng, lời ca điệu múa, hoạ tiết hoa văn, điêu khắc, kiến trúc… thể hiện tài năng nghệ thuật một cách kỳ bí, sống động.
Nếu các dân tộc Tây Nguyên tự hào về tượng nhà mồ thì người Cơ-tu cũng đầy kiêu hãnh khi tài hoa của các nghệ nhân được thể hiện ở nhà gươl. Nếu các thiếu nữ Tây Nguyên có thể quyến rũ người xem trong điệu múa xoang thì các cô gái Cơ-tu cũng lôi cuốn được cộng đồng trong vũ điệu “tung tung da dá” dập dồn nhịp trống ka thu trong đêm hội. Nhà gươl còn là mái nhà để cùng nhau nương tựa, sẻ chia, thắm tình yêu thương của mỗi người và của cả cộng đồng.
Một di sản đặc sắc là lễ hội truyền thống thì người Cơ-tu cũng đang sẵn có và chứa đựng nhiều giá trị văn hoá quý giá. Có thể kể ra hàng loạt lễ hội, nhưng xin nêu vài lễ hội tiêu biểu như lễ kết nghĩa, lễ cưới, lễ mừng nhà mới… Các lễ hội đó cũng là viên ngọc sáng giá của văn hoá truyền thống Cơ-tu. Trong mỗi lễ hội đều thể hiện rõ sắc màu đặc trưng của mỗi địa bàn cư trú khác nhau. Lễ cưới của người Cơ-tu ở Chà Vành (Nam Giang) hay lễ kết nghĩa ở Tà Lu (Đông Giang) hoặc lễ mừng nhà gươl ở A Nông (Tây Giang)… thể hiện những tập tục, lễ nghi, ứng xử rất hồn nhiên, mang đậm chất nhân văn.
Y phục và trang sức cũng là điều gây chú ý ở dân tộc Cơ-tu. Mỗi dịp lễ hội ở đây là một cuộc trình diễn trang phục cổ truyền đầy ấn tượng dù đó là cư dân ở vùng cao hay vùng thấp. Vào dịp ấy, tất cả các thành viên trong làng đều mang trang phục dân tộc mà hầu như nhà nào cũng có sẵn. Vì sao người Cơ-tu giữ được bộ trang phục phong phú hoa văn, sắc màu, nhất là bộ váy áo và trang sức gồm hạt cườm, mã não, vòng bạc, vòng đồng… đầy tính thẩm mỹ vậy? Phải chăng xuất phát từ ý thức trân trọng với vốn văn hoá của mình hay từ nhu cầu hàng ngày? Có lẽ cả 2 yếu tố này đều đúng. Với người lớn tuổi, những chiếc váy, áo thổ cẩm vẫn là thứ không thể thiếu được, đó là loại hình trang phục phù hợp nhất, tiện lợi nhất được ưa thích hơn những áo quần, vải vóc được mua từ các chợ ở phố huyện. Có những cô gái, thường nhật vẫn ăn mặc như người Kinh nhưng không quên trang phục truyền thống mỗi khi vào hội.
Cho đến nay, nghề dệt thổ cẩm ở đây vẫn được bảo lưu, phát triển ở hầu khắp các bản làng. Đây cũng là điều kiện để sáng tạo ra những bộ trang phục dựa trên chất liệu truyền thống. Hầu như khắp các buôn làng Tây Nguyên chưa thấy nơi nào còn giữ được nghề trồng bông dệt vải theo lối cổ truyền như ở đây. Tại làng Công Dồn, xã Duôi, huyện Nam Giang, vẫn gieo trồng những cây bông vải bản địa hoặc có nguồn gốc từ Lào để dệt vải thổ cẩm. Phụ nữ nơi đây đều tranh thủ sớm hôm kéo sợi, dệt vải, truyền nghề cho con cháu. Vải thổ cẩm của làng Công Dồn đủ làm hàng hoá để trao đổi lấy những mặt hàng thiết yếu cho nhu cầu sinh hoạt và làm đẹp các bản làng cũng như phát triển du lịch trong tương lai.
Tri thức bản địa Cơ-tu cũng là một di sản khó bề vơi cạn. Ẩm thực Cơ-tu không thua kém bất cứ dân tộc nào mà tiêu biểu là các món làm (thức ăn được nấu bằng ống tre, nứa) như cơm lam, dà rá, cá suốt phơi khô hun khói hay rượu tà vạt. Chúng trở thành đặc sản dành cho khách quý của làng, là món ăn hấp dẫn trong dịp lễ hội truyền thống hoặc ngày tết đến.
Di sản văn hoá Cơ-tu chẳng những được bảo tồn mà còn là nguồn sữa quý nuôi sống cộng đồng. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội miền núi, di sản đó thực sự là tiềm năng, là nội lực trên vùng núi Trường Sơn.
Nguồn: Dân tộc & Thời đại, số 62,1/2004, tr 24, 43








