Văn hoá bánh chưng
“Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”.
Có lẽ câu đối mang đậm nét văn hoá dân gian này ra đời từ khi bánh chưng được phổ biến chăng?
Chuyện xưa kể rằng: Vua Hùng thứ XVIII có 3 người con trai đều muốn chọn 1 trong 3 người để truyền ngôi. Phân vân không biết nên chọn ai, vua nảy ra ý định: cần có cuộc thi tài. Vua phán rằng: “Ai là người tài giỏi nhất đủ 3 phương diện “trí, đức, tài” sẽ được chọn”. Sau nhiều lần khảo hạch, họ đều tỏ ra ngang nhau. Nhà vua lại bảo “Bây giờ thi món ăn, ai làm món ăn ngon nhất sẽ được chọn”. Người con cả và con thứ đem dâng đủ món, từ sơn hào đến hải vị quý hiếm. Người con út nghèo nên băn khoăn mãi. Sau khi bàn bạc với vợ, chàng đem dâng món bánh chưng và bánh dày. Nhà vua và hoàng hậu nếm thử đều thấy ngon, vua bèn gọi các con lại hỏi về ý nghĩa của món ăn. Hai người con lớn lúng túng không biết giải thích thế nào. Người con út quỳ xuống tâu rằng:
“Kính thưa phụ vương! 2 thứ bánh mà chúng con làm ra là tượng trưng “trời tròn, đất vuong”. Tất cả những vật liệu làm bấnh đều là của trời, gạo nếp, đậu và thịt là những thứ có sẵn trong dân. Nhà vua vui mừng nhận ra tấm lòng yêu nước, quý dân của người con út cùng ý nghĩa sâu sắc của bánh, nên truyền ngôi và ra lệnh cho dân chúng trong nước làm bánh chưng cúng trời đất và tổ tiên. Từ đó bánh chưng được phổ biến khắp thiên hạ.
Làm bánh chưng không khó, vật liệu là gạo nếp, đậu, thịt, nhưng làm được bánh ngon không phải dễ làm. Bánh phải hội đủ các điểm sau:
Bánh chín nhuyễn, không khô, không nhão, không lõi. Lá gói là lá chuối, lá dong phải thật xanh thấm vào nếp. Hạt nếp kết láng, nhân bánh nhuyễn và dàn đều để khi cắt miếng bành nào cũng có nhân như nhau.
Ngày xưa khi đi dạm vợ cho con, các bà thường chờ đến ngày tết, ngày hội thi, gọi là đi “ xem mắc”. Xin nhắc lại chữ mắcở đây là “ mắc - mỏ” lựa chọn. Các bà tìm những cô gái làm bánh chưng khéo, ngon nhất, kén chọ họ về làm dâu nhà mình!
Nhìn qua cách trình bày, cái bánh chưng xanh đặt trên đĩa trắng hoặc mâm thau vàng rựng. Hai sắc vàng - xanh, trắng - xanh hỗ trợ cho nhau khiến người nhìn đã thấy ngon rồi! Với đôi bàn tay nhỏ nhắn, xinh xắn của cô gái cầm chiếc dây lạt nhỏ xíu, thăn thoắt cắt bánh, trong khoảnh khắc đã thành 4, thành 8 miếng đều và ngon như nhau là đủ biết chữ “công” của cô thế nào. Chữ công đứng đầu trong tứ đức” “Công, dung, ngôn, hạnh”. Cầm chiếc đũa găm vào bánh, giở lên là miếng bánh tự động rời ra. Miếng bánh vừa dẻo, vừa thơm, vừa đẹp với các màu xanh, trắng, vàng. Nét văn hoá ẩm thực của bánh chưng rất rõ. Trong dân gian Bình Định có câu đố:
Thứ gì trong trắng, ngoài xanh
Trỉa đỗ, trồng hành lại thả heo vô.
Ngoài ca dao, câu đố còn có cả chuyện tiếu tâm nữa. Chuyện kể rằng, có một anh chàng rất tham ăn. Nhân ngày giỗ vợ, anh gói một cái bánh chưng để cúng, nhưng anh sợ rằng: nếu đem bánh đặt lên bàn thờ, người xung quanh thấy được sẽ xin ăn, mất phần mình, anh đành giấu bánh chưng vào cạp (lưng) quần mà khấn rằng:
Hồn em mà có linh thiêng
Xin về mà hưởng, cái bánh vuông chuyền trong lưng.
Ngoài ra còn có hội thi bánh chưng và cả việc làm “bánh chưng đại”. Sự tích về bánh chưng đại như sau:
Tướng quân Phạm Bội - người ở làng Nghìn (làng Đông Linh ngày nay). Ông phò vua Lê Lợi, trên đường chuyển quân vào Thanh Hoá, ông cho làm những chiếc bánh chưng đại để binh sĩ ăn. Mỗi binh sĩ ngoài khí giới, họ chỉ cần mang theo vài cái bánh chưng đại. Mỗi cái độ 4 hay 5 kg, vắt vai hoặc đeo lưng là đủ lương thực vài chục ngày mà khỏi phải nổi lửa nấu nướng, để giữ bí mật. Phạm Bội đã lập nhiều chiến công, được vua Lê Thái Tổ ban quốc tính và đổi tên là Lê Bội. Ông làm quan đến chức Thái uý Quốc công.
Để tưởng nhớ người có công với làng nước, hàng năm người làng Đông Linh (làng Nghìn) tổ chức lễ Thần Hoàng vào mồng 6 tháng giêng. Tục lệ này có từ lâu. Làng Nghìn có 6 xóm, cứ tết đến là mỗi xóm đều gói 5-3 chiếc bánh chưng đại để cúng.
Dân làng chuẩn bị từ sau mùa chiêm. Đám ruộng tốt nhất được chọn để cấy nếp vào vụ mùa. Ngoài nếp họ còn chọn đậu, đỗ, lá dong, củ hành và heo ngon. Tất cả đều được chăm sóc đặc biệt chu đáo. Ngay cả cây tre lạt cũng được lựa từ trước tết. Cây tre phải vừa độ dẻo và đủ dài. Những người được để cử gói bánh đại là những nghệ nhân có bàn tay vàng khéo léo. Đến ngày gói, người trong làng kẻ làm việc này, người làm việc kia. Quang cảnh thật tưng bừng.
Trên chiếc nong lớn, những sợi dây chuối được kết thành rọ, những sợi lạt dài được đan hình chữ tỉnh (#) (giống như dấu thăng trong nhạc), các lớp lá dong được đan cài nhau, chia làm 8 mối. Trải một lớp nếp rồi mới đến đậu, hành và thịt, rồi đến lượt nếp thứ 2. Bốn người ngồi 4 góc đưa dần lên. Làm thế nào để bánh thật vuông rồi mới cột lạt. Luồn những đòn tre, khiêng bánh bỏ vào xanh (thứ nồi đồng rất lớn). Gói bánh xong họ được đãi một bữa rượu. Ăn xong họ mới nổi lửa. Bếp nấu được đào thành hình chữ thập (+) để lửa được đốt từ 4 phía. Tính toán thế nào để bếp và nồi bằng nhau, lửa đốt liên tục 24 giờ để bánh được mềm. Bánh nấu chín phải vỗ lại thật vuông vức, đặt lên kiệu, khiêng ra nơi miếu thờ.
Ngày nay làng Đông Linh đã khôi phục lại tục “gói bánh chưng đại”. Năm vừa qua dân làng đã gói một cái bánh nặng 70kg.
Bánh chưng đã có từ xưa, có lẽ từ khi con người biết để dành lương thực, chế biến thực phẩm. Bánh đi vào lòng dân, từ truyền thuyết đến ca dao, cả chuyện tiếu lâm và lan tràn khắp nước.
Bánh chưng trở thành tập tục tốt đẹp mang đầy nét văn hoá ẩm thực Việt Nam .
Nguồn: Dân tộc & Thời đại, số 62, 1/2004, tr 9, 16