Vấn đề bảo vệ môi trường và phát triển bền vững trong khai thác khoáng sản ở Việt Nam
Những năm gần đây, cùng với sự phát triển chung của cả nước, các hoạt động khoáng sản đã và đang góp phần to lớn vào công cuộc đổi mới đất nước (xuất khẩu dầu thô; khai thác, chế biến khoáng sản làm vật liệu xây dựng phục vụ sản xuất xi măng, các công trình cơ sở hạ tầng; công nghiệp cơ khí, luyện kim; chất đốt phục vụ sản xuất điện năng; phân hoá học, sinh học, hữu cơ tổng hợp phục vụ nông nghiệp v.v...). Ngành công nghiệp khai thác mỏ đã và đang ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế của Việt Nam . Cùng với đóng góp 5,6% GDP, hoạt động khai khoáng trong năm 2005 đã cung cấp cho thị trường khoảng 18,6 triệu tấn dầu thô và 6,6 tỷ m3 khí, khoảng 30 triệu tấn than, 0,5-0,6 triệu tấn quặng tinh, hàng nghìn tấn kim loại và quặng tinh kim loại, hơn 10 triệu tấn đá vôi và vật liệu xây dựng, bảo đảm việc làm cho hàng trăm nghìn công nhân đóng góp vào cải thiện nền kinh tế của nhiều vùng, nhất là những vùng núi xa xôi hẻo lánh. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đạt được chúng ta cũng đang phải đốt mặt với nhiều vấn đề về môi trường. Quá trình khai thác mỏ phục vụ cho lợi ích của mình, con người đã làm thay đổi môi trường xung quanh. Hoạt động của các mỏ khai thác than, quặng, phi quặng và vật liệu xây dựng như tiến hành xây dựng mỏ - khai thác thu hồi khoáng sản, đổ thải, thoát nước mỏ,... đã phá vỡ cân bằng điều kiện sinh thái đã được hình thành từ hàng chục triệu năm, gây ra sự ô nhiễm nặng nề đối với môi trường và ngày càng trở nên vấn đề cấp bách mang tính chất xã hội và chính trị của cộng đồng....
Từ năm 2001 đến nay, việc tuân thủ các quy định luật pháp về môi trường trong ngành mỏ đã có nhiều tiến bộ, tuy vậy vẫn còn một số địa phương vẫn không kiểm soát được tình trạng khai thác mỏ, kể cả về các hoạt động khai thác mỏ cũng như việc tuân thủ luật pháp ở trên đia bàn. Đặc biệt ở các vùng khai thác vàng, thiếc và đá quý, các cơ quan có chức năng chưa quản lý được các hoạt động khai thác mỏ phi pháp. Tại một số mỏ đang hoạt động, mặc dù đã tiến hành đánh giá tác động môi trường (ĐTM) nhưng các biện pháp bảo vệ môi trường không hoặc chưa được thực hiện tốt như đã được duyệt trong báo cáo ĐTM, báo cáo ĐTM chưa gắn kết hữu cơ với dự án dầu tư xây dựng như một số công trình và chi phí bảo vệ môi trường trong báo cáo ĐTM không có trong nội dung dự án, không được đưa vào cân đối tài chính của dự án, đặc biệt là việc ký quỹ phục hồi môi trường trong hoạt động khai khoáng chưa được các chủ dự án thực hiện nghiêm túc. Ngoài ra, cũng giống như nhiều nước đang phát triển khác, quy trình ĐTM toàn diện đôi khi được một số người coi như một sự cản trở đối với hiệu quả của dự án. Theo hệ thống văn bản pháp luật từ trước đây (trước khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 có hiệu lực) báo cáo ĐTM được duyệt sau khi giấy phép đầu tư đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc sau khi báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án đã được duyệt. Điều này đồng nghĩa với vị trí và phạm vi hoạt động của dự án đã được định trước khi báo cáo ĐTM được duyệt. Do vậy, báo cáo ĐTM chỉ còn có nhiệm vụ mô tả các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường của dự án chứ không có vai trò quyết định nếu dự án được phép ở vị trí ban đầu đã chọn, hay quyết định dự án phải chuyển đến một vị trí khác.
Hiện trạng môi trường trong ngành khai thác khoáng sản
Đối với việc khai thác than, từ năm 2000 đến nay, sản lượng ngành than đã tăng nhanh không ngừng. Để sản xuất 1 tấn than, cần bóc đi từ 8 đến 10 m3 đất phủ, thải từ 1 đến 3 m3 nước thải mỏ. Năm 2006 các mỏ than của Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam (TKV) đã thải vào môi trường tới 182,6 triệu m3 đất đá và khoảng 70 triệu m3 nước thải từ mỏ. Khối lượng chất thải rắn và nước thải mỏ gây ô nhiễm nặng cho vùng mỏ. Một vài vùng ô nhiễm đã đến mức báo động như Mạo Khê, Uông Bí, Cẩm Phả . . . Việc khai thác than ở Quảng Ninh đã phá huỷ hàng trăm km2 rừng, tạo ra xói mòn, bồi lấp ở các sông suối và làm ô nhiễm Vịnh Hạ Long. Một số mỏ than còn sử dụng công nghệ khai thác lạc hậu, thiếu chương trình khoa học tổng thể để xác định sự cần thiết về tăng trưởng công suất cho phù hợp với các yêu cầu bảo vệ môi trường. Do đó, môi trường đã chịu ảnh hưởng nặng nề bởi những tác động xấu, nước bị ô nhiễm nặng bởi chất rắn lơ lửng và vi trùng, bụi trong không khí v.v... Một vấn đề cần được nhấn mạnh là tính đồng bộ và tính triệt để của các giải pháp bảo vệ môi trường chưa được coi trọng nên một số chỉ tiêu môi trường thu được tại các điểm giám sát ở từng phạm vi nhất định thì có thể nằm trong giới hạn cho phép nhưng ở quy mô tổng thể thì lại vượt quá tiêu chuẩn.
Trong hoạt động khai thác mỏ kim loại, tác động rõ nét nhất là tàn phá mặt đất, ảnh hưởng xấu đến cảnh quan khu vực, nhất là rừng và thảm thực vật và làm tổn thất nghiêm trọng tài nguyên khoáng sản. Các hoạt động khai thác mỏ thường chiếm nhiều đất, trong khi một phần diện tích này có thể dùng vào các việc khác. Hầu hết các mỏ khai thác quặng kim loại của Việt Nam đều là mỏ lộ thiên, việc khai thác các mỏ này đòi hỏi phải bóc một lượng đất đá thải rất lớn. Các hoạt động khai thác kim loại thường sinh ra bụi, nước thải với khối lượng lớn, gây ô nhiễm không khí và nước. Một vấn đề khác của ô nhiễm bụi là bụi từ các quá trình tuyển quặng (ví dụ như tuyển tinh quặng ilmenit, rutil và zircon từ cát biển). Nhiều công nhân làm việc ở các nhà máy tuyển này đã mắc bệnh đường hô hấp do chỉ sử dụng các tư trang bảo hộ đơn giản trong khi môi trường làm việc rất bụi, đó là chưa kể đến nguy cơ về tia phóng xạ ảnh hưởng đến sức khoẻ con người. Ngoài ra, hoạt động khai thác mỏ kim loại cũng huỷ hoại môi trường nước do bồi tụ đất đá thải. Các chất rắn lơ lửng không những làm ô nhiễm chất lượng nước mặt tại khu vực mỏ mà còn chứa nhiều kim loại nặng, thuỷ ngân và các hoá chất độc hại khác gây ảnh hưởng đến các vùng lân cận và hạ nguồn các con sông. Tại các mỏ khai thác quặng sulfua như pyrit, chan-copyrit,..., nguy cơ tạo ra các dòng thải axit mỏ là không tránh khỏi nếu không có giải pháp xử lý triệt để.
Việc khai thác vật liệu xây dựng, nguyên liệu cho sản xuất phân bón và hoá chất như đá vôi cho nguyên liệu ximăng, đá xây dựng các loại, sét, cát sỏi, fenspat, apatit ,...đã gây những tác động xấu đến môi trường như làm ô nhiễm khí, ô nhiễm nước, gây tiếng ồn v.v... Các mỏ đá vôi và đá xây dựng được khai thác bằng nổ mìn và thủ công, trừ các mỏ của các nhà máy xi măng mới có hệ thống xúc bốc và chế biến đá bằng cơ giới. Nhìn chung quy trình khai thác đá còn lạc hậu, không có hệ thống thu bụi, nhiều khi hàm lượng bụi tại nơi làm việc lớn gấp 9 lần so với tiêu chuẩn cho phép.
Một trong những loại vật liệu xây dựng được khai thác từ lòng sông đó là cát. Hoạt động này tiến hành ở hầu hết các sông trên cả nước. Ở miền Nam , khai thác cát lòng sông phát triển ở các sông: Đồng Nai - Nhà Bè, Sài Gòn, Vàm Cỏ Đông, sông Tiền và sông Hậu. Khối lượng cát đã khai thác từ 1990 đến nay khoảng trên 100 triệu m3 (hiện nay ở miền Nam có hơn 120 khu vực được Uỷ ban nhân dân các tỉnh cấp phép khai thác cát xây dựng). Hoạt động khai thác này gây những tác động đến môi trường như làm đục nước sông, gây tiếng ồn, cản trở và nguy cơ tai nạn giao thông, đặc biệt là gây sạt lở bờ sông. Sông Đồng Nai và sông Sài Gòn là bị sạt lở nặng nề nhất.
Tóm lại, trong thời gian qua, việc thực hiện các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường của ngành mỏ còn hạn chế. Nhiều địa phương triển khai rất chậm các hoạt động quản lý và chưa hướng dẫn được các chủ đầu tư thực hiện nghĩa vụ của họ về bảo vệ môi trường theo luật định, làm cho một số chủ đầu tư không thực hiện nghiêm túc các nghĩa vụ của mình về bảo vệ môi trường. Công tác thanh tra, kiểm tra của các cơ quan quản lý nhà nước chưa được thực hiện đầy đủ và có chất lượng, hoặc khi tiến hành thanh kiểm tra chưa lấy báo cáo ĐTM được duyệt làm cơ sở.
Tiến tới một nền sản xuất sạch hơn cho ngành khai thác khoáng sản
Xây dựng mô hình công nghệ sản xuất sạch hơn (SXSH) là một chiến lược môi trường mang tính tích cực đã được hình thành ở các nước phát triển từ giữa những năm 1980 và ở một số nước Châu Á và Đông Âu từ những năm 1993. Các tổ chức quốc tế như Chương trình môi trường của Liên hợp quốc (UNEP), Tổ chức Phát triển công nghiệp (UNIDO), Tổ chức hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), Hội đồng Thương mại Thế giới về Phát triển bền vững, Tổ chức hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, … đã thừa nhận vai trò của SXSH và hỗ trợ việc áp dụng rộng rãi SXSH. Ở Việt Nam khái niệm về SXSH được đưa vào từ năm 1996, tuy nhiên cho tới ngày 22 tháng 9 năm 1999, Chính phủ mới ký "Tuyên ngôn quốc tế về SXSH" để khẳng định cam kết trong việc thực hiện chiến lược SXSH theo tinh thần của UNEP. Sau đó các tiếp cận về SXSH đã được triển khai, một kế hoạch hành động quốc gia về SXSH đã được Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường xây dựng và đề tài nghiên cứu cơ hội SXSH trong hoạt động khai thác và chế biến khoáng sản kim loại ở Việt Nam" là một trong những hoạt động đầu tiên về SXSH trong lĩnh vực hoạt động khoáng sản do Bộ Công Thương quản lý. Trong ngành mỏ, công nghệ SXSH là một quá trình hoàn thiện liên tục bằng tổng hợp nhiều giải pháp công nghệ, kỹ thuật, tổ chức, giáo dục,...nhằm phòng ngừa, ngăn chặn và hạn chế các tác động xấu của khai thác mỏ tới môi trường mà vẫn không làm hạn chế sự tăng trưởng của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là một biện pháp làm trung hòa mâu thuẫn giữa tăng trưởng không ngừng và suy giảm môi trường, làm chắc chắn thêm tính bền vững trong quá trình phát triển của ngành. Mục tiêu cơ bản của SXSH là tăng lợi ích kinh tế và bảo vệ môi trường:
1. Tăng hiệu suất sử dụng nguyên, nhiên, vật liệu, thiết bị, máy móc để sản xuất được nhiêu sản phẩm mỏ hơn.
2. Sinh ra ít chất thải và chất ô nhiễm, giảm độ độc hại phát thải ra trong quá trình hoạt động sản xuất.
3. Hoàn thiện chất lượng sản phẩm nhằm sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả và giảm thiểu các tác động xấu của nó tới môi trường trong suốt đời sản phẩm.
Nội dung của SXSH bao gồm nhiều hành động và giải pháp lớn, trong điều kiện áp dụng vào ngành khai thác khoáng sản thì những vấn đề cần được quan tâm lớn nhất là quản lý tốt nơi làm việc (nội vi), kiểm soát quá trình sản xuất, thay đổi công nghệ, thiết bị và sử dụng tổng hợp tài nguyên. Cốt lõi của vấn đề SXSH là phòng ngừa, ngăn chặn và giảm thiểu các tác động tiêu cực của hoạt động phát triển tới môi trường, còn việc khắc phục, sửa chữa các hậu quả chỉ là giải pháp tình thế.
Thực tế triển khai áp dụng SXSH tại các doanh nghiệp từ nhiều năm nay đều cho thấy hiệu quả từ việc áp dụng các giải pháp SXSH là rõ ràng, nguyên liệu và nhiên liệu sử dụng trong các ngành sản xuất đều được giảm đáng kể, nhiều doanh nghiệp khi áp dụng sản xuất sạch hơn đã giảm được lượng tiêu thụ nhiên liệu tới hơn 50%, tiêu thụ điện cũng giảm hơn 30%. Lợi ích rõ rệt về mặt kinh tế là một động lực hấp dẫn các doanh nghiệp trong việc chủ động áp dụng SXSH đối với hoạt động sản xuất của doanh nghiệp mình.
Luật Khoáng sản, Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản pháp quy có liên quan khác đã giúp cho các hoạt động khoáng sản đi vào nền nếp, các yêu cầu về bảo vệ môi trường trên các mỏ lộ thiên và hầm lò đã được thực hiện ở các mức độ khác nhau. Nhưng đứng ở góc nhìn tổng thể thì sự suy thoái môi trường ở các vùng mỏ do hoạt động khai thác đang là mối quan tâm, l0 ngại của mọi người. Thực tế này đã thúc ép và tạo ra nhiều cơ hội để ngành khai thác mỏ tiếp cận SXSH.
Đối với hoạt động khai thác khoáng sản, SXSH là một phạm trù mang tính tương đối giữa tương lai và hiện tại, giữa hiện tại và quá khứ, diễn biến trong không gian rộng lớn với sự đa dạng về phương thức tiến hành và công cụ sử dụng. SXSH phản ánh quá trình phát triển nhận thức của các cá thể tham gia hoạt động về tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ môi trường, khả năng tổ chức và kiểm soát các hoạt động sản xuất, quản lý công việc và thiết bị sử dụng. Ở chừng mực nào đó, tuỳ theo điều kiện cụ thể, SXSH phải đạt được mục tiêu là đẩy mạnh được sản xuất, nâng cao năng suất làm việc của thiết bị, mang lại hiệu quả kinh tế lớn hơn cho doanh nghiệp nhưng vẫn hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ môi trường.
Đối với ngành khai khoáng, để tiếp cận với công nghệ SXSH thì những giải pháp kỹ thuật- công nghệ cơ bản cần tiến hành là :
- Lựa chọn những công nghệ hợp lý (phù hợp với điều kiện tự nhiên và kỹ thuật mỏ) nhằm tăng hiệu quả khai thác và tiết kiệm tài nguyên lòng đất.
- Sử dụng thiết bị cỡ lớn (trong điều kiện có thể) nhằm đảm bảo hoạt động chắc chắn, năng suất cao; giảm ít số lượng các nguồn tiềm ẩn rủi ro, sự cố môi trường như gây bụi, khí độc hại, chấn động, ồn... và tăng hiệu quả quản lý.
- Tận dụng tối đa các khoảng trống đã khai thác để làm bãi thải, đất đá thải vào các mục đích kinh tế khác.
- Áp dụng đồng bộ các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong các khâu sản xuất của dây chuyền công nghệ trên mỏ.
- Tăng cường quan trắc và giám sát môi trường trong phạm vi không gian và thời gian hoạt động của khai thác.
Bên cạnh đó, cần tổ chức tuyên truyền, tập huấn vê công nghệ SXSH cho đội ngũ cán bộ quản lý của các doanh nghiệp trong ngành. Về mặt tinh thần, cần giáo dục, động viên, khuyến khích để các doanh nghiệp thấy rõ tầm quan trọng của vấn đề SXSH đối với môi trường, đối với sự phát triển bền vững của xã hội nói chung và của ngành khai thác khoáng sản nói riêng, sử dụng các công nghệ sản xuất thân thiện với môi trường, kiên trì với phương châm hoạt động SXSH trong sản xuất - kinh doanh của mình.
Kết luận và kiến nghị
Các hoạt động khai thác khoáng sản đã gây ra nhiều loại tác động xấu đến môi trường xung quanh, nhưng có thể gói gọn lại trong một số tác động chính như sau: Sử dụng chưa thực sự có hiệu quả các nguồn khoáng sản tự nhiên; Tác động đến cảnh quan và hình thái môi trường; Tích tụ hoặc phát tán chất thải rắn, làm ảnh hưởng đến sử dụng nước, ô nhiễm nước, tiềm ẩn nguy cơ về dòng thải axit mỏ, ô nhiễm không khí; ô nhiễm đất; Làm ảnh hưởng đến đa dạng sinh học; Gây tiếng ồn và chấn động, sự cố môi trường; Tác động đến công nghiệp nói chung; Tác động đến kinh tế - xã hội; Gây ảnh hưởng đến sức khoẻ và an toàn của người lao động.
Với mục tiêu tăng cường công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản, Nhà nước theo từng thời kỳ đã ban hành hành kịp thời các văn bản pháp luật, quy phạm phù hợp. Để các văn bản này đi được vào thực tiễn của lĩnh vực hoạt động khai thác khoáng sản nhằm đẩy mạnh hiệu quả của công tác bảo vệ môi trường, đảm bảo cho sự phát triển bền vững, cần triển khai đồng bộ các nhiệm vụ sau:
Một là nâng cao nhận thức, tuyên truyền và giáo dục về bảo vệ môi trường cho mọi thành viên tham gia hoạt động khoáng sản.
Hai là đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động bảo vệ môi trường, động viên các tổ thức, cá thể tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường kể cả phổ biến và tham vấn cộng đồng.
Ba là nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ môi trường, công nghệ sản xuất sạch hơn và thân thiện với môi trường, phát triển các công nghệ xử lý và tái chế, tái sử dụng chất thải; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong bảo vệ môi trường; đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, chuyển giao, ứng dụng công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực cho bảo vệ môi trường.
Bốn là đưa nội dung bảo vệ môi trường vào chương trình đào tạo trong các nhà trường, đặc biệt ở bậc đại học của các ngành có liên quan đến hoạt động khoáng sản, như một chuyên ngành về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản.








