Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 22/07/2010 20:49 (GMT+7)

Từ Bình Lệ Nguyên đến Đông Bộ Đầu – logic của một phương lược kháng chiến

Đại Việt nằm ở phía Nam nước Tống đã trở thành đối tượng và có vị trí hết sức quan trọng trong kế hoạch tiến xuống phía Nam của quân Mông Cổ. Chiếm được Đại Việt chúng không chỉ có thêm một mũi vu hồi vào nước Tống, mà nơi đây còn trở thành bàn đạp để đế chế Mông Cổ mở các cuộc viễn chinh xuống các quốc gia Đông Nam Á châu Á.

Trước nguy cơ đất nước bị xâm lược, nhà Trần đã tích cực phát triển kinh tế, tăng cường tiềm lực quân sự, thường xuyên nắm chắc tình hình địch. Cuối năm 1257, vua Trần Thái Tông điều quân lên tăng cường bố phòng ở biên giới Tây Bắc, lệnh cho cả nước sắm sửa vũ khí, khẩn trương chuẩn bị kháng chiến. Với sự chuẩn bị tích cực, cùng với tinh thần kiên cường chống giặc xâm lược, nhà Trần và quân dân Đại Việt chủ động từng bước sẵn sàng chống quân xâm lược Mông Cổ.

Sau khi dùng các biện pháp ngoại giao kết hợp với quân sự đe doạ không được, tháng 12 năm 1257, Ngột Lương Hợp Thai tập trung khoảng 3 vạn quân, gồm kỵ binh Mông Cổ, người Lô Lô và người Thoán Bặc (một tộc người ở Vân Nam) và quyết định vượt biên giới đánh sang Đại Việt. Lực lượng tiên phong chia làm hai cánh theo tả và hữu ngạn sông Thao tiến sâu vào nước ta. Đại quân, dưới sự thống lĩnh của Ngột Lương Hợp Thai tiến tiếp sau. Trước sức mạnh của một đội quân thiện chiến, quân triều đình và lực lượng dân binh của ta kiên quyết chặn đánh, tiêu diệt một số lực lượng địch, làm chậm cuộc hành quân của địch nhưng không thể chặn đứng được cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ. Các cánh quân tiên phong của địch sau khi chọc thủng các tuyến phòng ngự của ta đã hội quân được ở Bạch Hạc và tiến theo đường bộ về Thăng Long.

Ngày 17 tháng 1 năm 1258, quân giặc tới Bình Lệ Nguyên (vùng Bình Xuyên, Vĩnh Phúc ngày nay). Đây là vùng đất rộng, có sông Cà Lồ chắn ngang đường tiến quân của địch. Tại đây, quân ta lập một phòng tuyến chặn giặc bảo vệ kinh đô. Trận địa ta lập bên này sông, bố trí cả bộ binh, kỵ binh, tượng binh và thuỷ binh cùng nhiều chiến thuyền đậu sát bờ sông. Để tiến qua sông, địch chia lực lượng thành ba đội. Âm mưu của địch là nhử ta vượt sông giao chiến để chúng bao vây, cắt đường rút, tiêu diệt hoàn toàn lực lượng quân ta, rồi thẳng tiến về Thăng Long.

Khi đội quân tiên phong của Triệt Triệt Đô vừa tới bờ sông liền bị quân ta đón đánh quyết liệt, buộc Ngột Lương Hợp Thai phải đưa đại quân ra tiếp ứng. Địa hình bằng phẳng tạo thuận lợi cho kỵ binh giặc tung hoành. Cậy quân đông, quân giặc ào ạt tiến công ta từ nhiều phía, quân ta dũng cảm chống trả các đợt tiến công của địch, kiên quyết giữ vững trận địa. Quân địch mạnh do phát huy được sở trường và quen chinh chiến, quân ta nhiều năm không chiến đấu nên khó tránh khỏi lúng túng, trận địa của ta mất dần trước sự đột kích mạnh của kỵ binh thiện chiến của địch. Nhận thấy tiếp tục chiến trận sẽ khó trụ nổi với giặc, nên vua Trần Thái Tông quyết định cho quân lên thuyền xuôi theo dòng sông Cà Lồ, rút về Phù Lỗ để tiếp tục lập tuyến phòng ngự chặn đánh giặc. Không cướp được thuyền, không chặn được quân ta rút lui, âm mưu bắt vua Trần không thành.

Ngày 18 tháng 1 năm 1258, tại Phù Lỗ vua Trần đã cho phá cầu, lập trận địa ở hữu ngạn sông chặn địch. Khi quân địch đến chúng không còn cầu vượt qua sông, không có thuyền, chúng phải đi dọc bờ sông tìm chỗ nông để vượt qua. Khi vượt qua được sông, Ngột Lương Hợp Thai đốc quân tiến công trận địa quân Trần. Thần Thái Tông cho quân rút về Thăng Long. Nhận thấy thế và lực của địch còn rất mạnh, ta chưa thể đánh bại chúng, cũng không thể cố thủ. Để bảo toàn lực lượng, chờ thời cơ, triều đình quyết định rút quân khỏi kinh đô, theo sông Hồng về đóng quân ở vùng Thiên Mạc củng cố lực lượng tiếp tục kháng chiến. Như vậy, Bình Lệ Nguyên là trận đánh lớn đầu tiên của quân và dân nhà Trần, mặc dù không chặn đứng được cuộc tiến công của chúng nhưng đã làm cho kế hoạch tiến công nhanh quân Mông Cổ thất bại ngay từ trận đầu.

Đặc điểm nổi bật nhất về nghệ thuật quân sự của trận Bình Lệ Nguyên là quân nhà Trần đã biết rút lui đúng lúc để bảo toàn lực lượng tiếp tục kháng chiến. Và trong khi thực hiện kế hoạch rút lui, quân ta vẫn tích cực chiến đấu để từng bước ngăn chặn quân địch, tiêu hao sinh lực của chúng. Đây cũng là sự mở đầu cho việc hình thành nghệ thuật chỉ đạo rút lui chiến lược của nhà Trần trong các cuộc kháng chiến sau này. Trước sức mạnh của địch, trên dọc đường chúng tiến quân, nhân dân làm vườn không nhà trống, không cho giặc bắt người, cướp của.

Theo kế sách của triều dình, quân và dân ta, đánh chặn địch từng bước nhằm tiêu hao sinh lực địch, làm chậm bước tiến quân của chúng, tạo điều kiện thuận lợi cho triều đình và đại binh từ kinh đô Thăng Long tạm thời rút lui chiến lược bảo toàn lực lượng. Cùng với việc rút lui chiến lược, nhà Trần chỉ đạo nhân dân Thăng Long thực hiện kế “thanh dã” một cách triệt để. Khi quân Mông Cổ kéo vào Thăng Long thì chỉ tìm thấy những tên sứ do Ngột Lương Hợp Thai sai vào Đại Việt đang ngồi trong ngục. Sau gần một tháng hành binh, tác chiến, binh lực tiêu hao, người ngựa mệt mỏi, lương thảo thiếu thốn, lại không nắm được ý định hành động của ta; chúng quyết định ra hạ trại ở khu vực Đông Bộ Đầu (khu vực phố Hàng Than – Hoè Nhai bây giờ) để nghỉ ngơi, củng cố lực lượng, nắm tình hình quân ta sau đó tiếp tục tiến công.

Đông Bộ Đầu là một bến thuỷ quân lớn ở sát kinh thành, trên bến có doanh trại thuỷ binh của quân đội nhà Trần. khi quân Nguyên tới Đông Bộ Đầu thì chỉ còn doanh trại không. Chúng đóng ở đây. Chiếm được Đông Bộ Đầu, Ngột Lương Hợp Thai cho dựng hàng ngàn lều trại lớn nhỏ bằng da thú ở bến sông. Đại bản doanh của Ngột Lương Hợp Thai đặt giữa lều trại của những đội quân thân binh, vòng ngoài là trại của binh lính. Cạnh các lều trại đều có tàu ngựa, yên cương luôn đóng sẵn; quân lính luôn ở tư thế sẵn sàng tham chiến. Phía ngoài của khu đóng quân còn có ba tuyến canh gác thường trực, trên các ngả đường đến bản doanh đều đặt trạm cảnh giới.

Sau khi rút khỏi Thăng Long, triều đình nhà Trần cùng đại quân theo sông Hồng về đóng ở bãi sông Thiên Mạc (Hưng Yên) cách địch khoảng 30 – 35 km về phía nam, quân ta tranh thủ thời gian bổ sung lực lượng, chỉnh đốn đội ngũ, sẵn sàng chờ lệnh xuất quân.

Do không hợp khí hậu, chiếm đóng trên đất nước ta một thời gian ngắn, quân Mông Cổ sa sút về tinh thần, vừa thiếu lương thực, bệnh tật phát triển nên sức chiến đấu giảm nhanh chóng. Địch cố mở những cuộc cướp phá ra xung quanh Thăng Long, nhưng đến đâu chúng cũng bị nhân dân và lực lượng vũ trang địa phương chống trả mãnh liệt. Khi chúng ra Cổ Sở (Hà Tây) nhân dân ở đây đã đoàn kết chiến đấu, bảo vệ xóm làng, đánh chúng phải bỏ chạy. Trước thời cơ đó, Trần Thái Tông cùng các tướng lĩnh quyết định sử dụng gần 4 vạn quân, gồm bộ binh, thuỷ binh và kỵ binh, do Trần Quốc Tuấn, chỉ huy “nhân cơ đánh úp giặc”. Thời gian cuộc phản công chiến lược bắt đầu vào đêm 28 rạng ngày 29 tháng 1 năm 1258.

Đúng ngày đã định, hai cánh quân thuỷ bộ bắt đầu xuất phát nhằm thẳng kinh đô tiến quân. Cánh bộ chia làm hai mũi từ phía Nam và phía Tây chọc thẳng vào khu địch đóng quân; cánh thuỷ do vua Trần Thái Tông cùng các tướng lĩnh chỉ huy đoàn binh thuyền từ Thiên Mạc theo sông Hồng đổ bộ lên Đông Bộ Đầu, tập kích vào doanh trại quân địch ở mặt Đông. Đêm 28 tháng 1, tiền quân nhà Trần đã tiến sát Thăng Long và tách ra làm hai hướng. Khoảng 5 nghìn kỵ binh hợp thành mũi tiến công về phía Tây (mũi trái) khu đóng quân của địch. Khoảng 3 nghìn bộ binh tiếp tục tiến sát khu đóng quân dịch từ mặt Nam (mũi phải). Đến nửa đêm, các mũi tiếp quân của ta bí mật tiếp cận các tuyến canh gác của địch. Mặc dù thuỷ binh và đạo quân chủ lực còn ở xa, nhưng chớp thời cơ có lợi, tướng tiên phong Trần Khánh Dư lập tức hạ lệnh tiến công.

Theo kế hoạch bộ binh và kỵ binh của ta thần tốc lao vào khu lều trại quân Mông Cổ. Kỵ binh quân ta chớp nhoáng tiêu diệt kỵ binh địch; đồng thời từng nhóm bộ binh ta bao vây, chia cắt tiêu diệt địch ngay trong lều trại của chúng. Quân của Ngột Lương Hợp Thai rối loạn, lúng túng bị động “người không kịp mặc áo giáp, ngựa không kịp đóng yên” chống cự yếu ớt, hoảng loạn. Mặc dù về số lượng quân ta ít hơn quân địch (chủ lực của ta gần sáng mới tới) nhưng do chủ động, chọn đúng thời cơ (thời điểm người tách khỏi ngựa), có cách đánh thích hợp, quân ta nhanh chóng chiếm hoàn toàn ưu thế.

Mặc dù dốc sức đối phó, đến sáng Ngột Lương Hợp Thai mới biết rõ đại quân của y đã bị thiệt hại nặng nề. Trong lúc đó, sức mạnh của quân ta lại được tăng cường, được chủ lực đến tiếp sức. Trước tình hình đó, lợi dụng quân ta đang triển khai lại đội hình, Ngột Lương Hợp Thai ra lệnh cho các tướng suý mở đường máu, rút chạy khỏi Thăng Long về hướng Bạch Hạc. Giặc chạy lên ngã ba Bạch Hạc để theo đường bên bờ sông Thao, chạy qua vùng Quy Hoá trở về Đại Lý. Khi quân giặc chạy tới Bạch Hạc, Sơn Vi thì bị quân địa phương do Phùng Lộc Hộ chỉ huy đánh đuổi, giặc chạy lên vùng Quy Hoá. Chủ trại Quy Hoá là Hà Bổng cùng quân và dân tập kích, giặc thua to. Tàn binh giặc cố chạy thoát thân ra khỏi biên giới. Khi về đến Đại Lý, đạo quân của Ngột Lương Hợp Thai chỉ còn khoảng 5 nghìn tên.

Trận đánh của quân và dân nhà Trần hoàn toàn thắng lợi. Khoảng 2 vạn kỵ binh địch bỏ xác trên bến Đông Bộ Đầu. Sáng 29 tháng 1, vua Trần Thái Tông cùng các tướng lĩnh, binh sĩ tiến vào kinh thành trong niềm hân hoan của nhân dân kinh đô. Ngày 5 tháng 2 năm 1258 (mồng một Tết Mậu Ngọ), tại Thăng Long, triều đình làm lễ mừng thắng trận và phong thưởng các tướng sĩ đã có công diệt giặc, cứu nước. Cùng với Thăng Long, quân và dân cả nước phấn khởi, đón mừng chiến thắng. Cuộc kháng chiến chống Mông Cổ lần thứ nhất của quân dân ta đã toàn thắng mà Đông Bộ Đầu là trận có tính chất quyết định.

Chiến thắng Đông Bộ Đầu của dân tộc thời Trần (1258) là chiến thắng đầu tiên của các dân tộc bị đế quốc Mông Cổ xâm lược, và cũng là thất bại đầu tiên của họ trong cuộc trường chinh xâm lược gần 50 nước từ Á sang Âu. Bài học đắt giá ấy làm cho giặc Nguyên vốn chưa bao giờ ngừng bước trên con đường xâm lược; nhưng sau đại bại này (1258), phải gần 30 năm sau chúng mới dám mở cuộc xâm lược nước ta lần thứ 2 (1285).

Về nghệ thuật quân sựtừ trận đầu phòng ngự Bình Lệ Nguyên đến trận tập kích chiến lược Đông Bộ Đầu, trước hếtvà quan trọng hơn hết là phải đánh giá đúng địch, ta; hạ quyết tâm rút lui chiến lược chính xác và rút lui đúng thời cơ. Để tránh sức mạnh ban đầu và sở trường của địch, nhà Trần đã tiến hành rút lui chiến lược khỏi Bình Lệ Nguyên, sau đó rút khỏi cả kinh đô Thăng Long, làm thất bại kế hoạch nhanh chóng bao vây đánh tan quân ta [của địch mong muốn].

Hai là, rút lui bí mật, nghi binh tạo bất ngờ cao, bảo toàn lực lượng, giữ vững ý chí chiến đấu tích cực chuẩn bị mọi mặt cho cuộc tổng phản công. Quân ta chủ động rút khỏi Thăng Long, không những bảo toàn được lực lượng, tranh thủ được thời gian, tạo thời cơ để phản công mà còn đặt địch trước tình thế không thực hiện được chiến lược đề ra. Một trong những tình huống khó khăn và lo ngại nhất của quân Mông Cổ là không biết tình hình và ý định hành động của quân ta. Quân dân Đại Việt đã chủ động tạo nên cục diện mới trên chiến trường. Quân ta dùng thuyền rút theo đường sông nên kỵ binh Mông Cổ nếu truy kích sẽ gặp khó khăn. Mặt khác, địch lại không rõ tình hình, ý định của quân ta nên không đám truy kích.

Ba là, chọn thời cơ tập kích chính xác, kiên quyết; đúng hướng và mục tiêu chủ yếu; vận dụng phương pháp phản công sáng tạo. Binh thư yếu lượcviết về thời cơ: “Thời là cái đến không đầy chớp mắt, trước thì thái quá, sau thì bất cập…”. Quân Mông Cổ không dám đóng trong thành Thăng Long, phải cụm lại ở Đông Bộ Đầu trong vòng vây của thế đánh nhỏ lẻ. Một đạo quân tiến công như lốc cuốn, sau cuộc hành quân chiến đấu đường dài, sinh lực bị hao, nhuệ khí mệt mỏi và bắt đầu giảm sút tinh thần chiến đấu… đó là thời cơ để nhà Trần phản công. Khi đã phản công thì kiên quyết, liên tục… Mặc dù đạo quân chủ lực do vua Trần chỉ huy chưa tới, nhưng khi thời cơ có lợi, tướng Trần Khánh Dư lập tức hạ lệnh đánh úp… và đạo quân khoảng 3 vạn của địch được xác định là mục tiêu chủ yếu là chính xác.

Nghệ thuật rút lui chiến lược từ Bình Lệ Nguyên được liên tục tiếp nối với nghệ thuật phản công chiến lược trong trận Đông Bộ Đầu thể hiện tính tích cực, chủ động tiến công địch. Những kinh nghiệm ấy là nền móng hình thành tư tưởng chiến lược “lấy nhàn chờ nhọc” “lấy đoản binh phá trường trận” mà Trần Quốc Tuấn và triều đình nhà Trần đã áp dụng thành công trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên sau này.

Sự đóng góp của các tài năng, anh hùng, nhân vật lịch sử quân sự trong cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên xâm lược, bảo vệ và giải phóng kinh thành Thăng Long để lại nhiều dấu ấn nổi bật cả về chiến công và sự phát triển tư tưởng quân sự. Trong rất nhiều tài năng, anh hùng, nhân vật lịch sử quân sự tiêu biểu thời này, Trần Thủ Độlà nhân vật lịch sử nổi tiếng, vừa là đệ nhất công thần sáng lập vương triều Trần, vừa là người trực tiếp lãnh đạo công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Là Tể tướng Thái sư, ông rất quan tâm xây dựng quân đội, chủ trương lập sổ tướng tịch để nắm chắc hộ khẩu, tiện cho việc giữ gìn an ninh, tuyển chọn binh lính và tích cực tham gia chỉ huy đánh dẹp các thế lực chống đối nhằm xây dựng chính thể phong kiến tập quyền đủ sức chống ngoại xâm. Khi giặc tràn vào, Trần Thủ Độ cương quyết chủ chiến với câu nói nổi tiếng “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo”, trở thành nguồn động viên cao độ đối với quân sĩ và nhân dân. Kế sách “vườn không nhà chống” mà ông là một trong những người chủ xướng đã làm cho giặc tuy chiếm Thăng Long không mấy khó khăn, nhưng ngay lập tức lâm vào tình thế bất an trước một cuộc kháng chiến hoàn toàn khác lạ.

Lê Tầnlà viên dũng tướng tài ba mưu lược, có tư duy phân tích thực tiễn nhạy bén của nhà Trần. Tên tuổi và tài năng của ông gắn với chiến thắng trọn vẹn cuộc kháng chiến lần thứ nhất. Bình Lệ Nguyên là trận đánh lớn đầu tiên của quân và dân nhà Trần trong lần đọ sức đầu tiên với đế quốc Mông – Nguyên. Trận đánh đã diễn ra hết sức ác liệt, quân ta dũng cảm, bình tĩnh bám giữ phòng tuyến chống địch, tướng tiên phong Lê Tần cưỡi ngựa tả xung, hữu đột chỉ huy quân sĩ giáp chiến với quân thù. Nhưng quân Mông Cổ quá mạnh, lại phát huy được sở trường và đã dày dạn kinh nghiệm chinh chiến, nên quân ta rơi vào tình thế hiểm nghèo. Chính viên dũng tướng tài ba mưu lược Lê Tần đã khuyên vua chủ động rút lui để bảo toàn lực lượng, tính kế lâu dài, và đã ra sức bảo vệ vua rút về đóng giữ vùng Thiên Mạc.

Trần Quốc Tuấnbiết dùng người hiền lương và thường tiến cử những người tài giúp nước, đặc biệt rất thương yêu binh lính, luôn dặn dò các tướng sĩ phải một lòng “phụ tử chi binh”, vì thế quân đội luôn tin tưởng và trung thành. Tài năng quân sự của ông thể hiện tuyệt vời trong chiến trận, nên được vua tin cậy, giao quyền tiết chế chỉ huy các vương hầu, tướng lĩnh đánh tan giặc ở Đông Bộ Đầu. Với tri thức quân sự uyên bác kết hợp với tinh thần yêu nước nồng nàn và lòng trung thành vô hạn với vua, với nước, ông không những đóng góp lớn trong tổ chức và lãnh đạo kháng chiến, mà còn là nhà lý luận, tư tưởng quân sự nổi tiếng.

Nghệ thuật quân sự trong cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên là nghệ thuật chiến tranh toàn dân, cả nước đánh giặc. Đó là điển hình của nghệ thuật chiến tranh toàn dân bảo vệ đất nước của dân tộc ta trong thời đại phong kiến. Nghệ thuật quân sự được phát triển cực kỳ mạnh mẽ với những nét văn hoá quân sự đặc sắc, nhất là sự thể hiện trên mặt trận bảo vệ, giải phóng Thăng Long – Hà Nội.

Chính quyết định đúng đắn trong cuộc kháng chiến lần thứ nhất đã trở thành phương lược kháng chiến chống xâm lược độc đáo thời Trần. Trong cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên lần thứ hai, tuy sau nhiều năm chuẩn bị, lực lượng của ta đã khá mạnh, nhưng nếu dồn toàn lực chặn địch ở biên giới cũng chưa phải thượng sách. Trận chặn đánh thể nghiệm ở Vạn Kiếp – Bình Than thất lợi đã củng cố quyết định một lần nữa rút lui chiến lược, không phải vì thua lớn, mà là sự chủ động sau khi thử nghiệm quyết tâm ban đầu không thành công. Lần thứ ba, chủ trương tạm rút lui hoàn toàn nằm trong tính toán chiến lược ngay từ đầu, vì ta đã có kinh nghiệm dày dặn, phong phú của hai lần kháng chiến trước. Vì vậy, địch từ chỗ so sánh lực lượng ban đầu tuy vẫn ở thế áp đảo đã bị sa vào thế trận chiến tranh toàn dân rộng khắp của ta, cuối cùng bị tiêu diệt trong trận Bạch Đằng lịch sử.

Xem Thêm

Hà Giang: Hội thảo quản lý sử dụng, giải pháp nhân rộng 2 mô hình KHCN tiêu biểu
Ngày 04/4/2024, tại Hà Giang, Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Hà Giang phối hợp với Viện Dân số, Sức khỏe và Phát triển (PHAD) - Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học “Đánh giá công tác quản lý, sử dụng mô hình nhà tiêu sinh học (NTSH) không dùng nước; hệ thống cấp nước sạch và nước uống trực tiếp (mô hình nước uống học đường - NUHĐ).

Tin mới

84 giải pháp đoạt giải Hội thi Sáng tạo kỹ thuật toàn quốc lần thứ 17
Tối 23/4, tại Nhà hát Lớn Hà Nội, Quỹ Hỗ trợ Sáng tạo kỹ thuật Việt Nam (Vifotec) đã phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Trung ương Ðoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tổ chức tổng kết và trao giải thưởng Hội thi Sáng tạo kỹ thuật lần thứ 17 (2022-2023).
Bí thư TW Đảng Nguyễn Trọng Nghĩa: Hoạt động của LHHVN ngày càng đổi mới, ổn định và phát triển
Phát biểu tại buổi làm việc với LHHVN, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa đã khẳng định những thành quả, nỗ lực của LHHVN trên chặng đường hơn 40 năm hình thành và phát triển, đồng thời nhận định hoạt động của LHHVN có nhiều đổi mới, ổn định, phát triển hơn.