Trần Văn Giàu: Ngời sáng một nhân cách trí thức
Sống được như ông thì cái chết hóa thành bất tử!
Với tuổi trời chẵn một trăm, hơn 80 năm cống hiến cho sự nghiệp cách mạng, ông ung dung đi vào lịch sử không chỉ với tư cách một người thầy dạy sử, một người nghiên cứu lịch sử mà trọn vẹn nhất là với tư cách một người cách mạng theo ý nghĩa cao đẹp nhất của nó để góp phần viết nên lịch sử của dân tộc.
Đúng, trọn vẹn nhất khi nghĩ về giáo sư Trần Văn Giàu là nghĩ về một nhà cách mạng, một nhân cách trí thức sáng ngời trong sự nghiệp cách mạng ấy.
" Ông đã đến tuổi trời, không cần phải xem ngày giờ nữa, sách vở chỉ định đến 96 tuổi thôi", đấy là lời của một vị hòa thượng khả kính trả lời cho câu hỏi thường lệ theo đúng phong tục về tang chế.(1) Đã đến "tuổi trời" như ông, thì hình như chuyện " cái quan luận định" [chỉ khi đậy nắp quan tài thì lời bàn hay dở mới vẹn toàn được] cũng không còn cần thiết nữa! Bởi vì, lịch sử đã từng bước biểu tỏ sự công minh thông qua những luận định của công chúng đối với nhà cách mạng mà họ ngưỡng mộ. Đó chính là sự minh triết của truyền thống văn hóa Việt Nam khi luận định về người cách mạng chân chính, người chiến sĩ tiền phong đang gánh vác trọng trách hay đảm đương công việc bình dị.
Cách mạng không chỉ trong ý nghĩa lật đổ áp bức, bất công, giành lại độc lập cho dân tộc dù phải tù đày, cùm kẹp. Cách mạng, còn là vì danh dự của người trí thức đích thực, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không chịu cúi đầu khuất phục. Cách mạng trong bản lĩnh ứng xử với những bất công oan trái cho chính thân phận mình. Và cách mạng trong việc tận hiến cuộc đời cho lý tưởng cao đẹp vì nước vì dân, vì khát vọng dân chủ và tự do.
" Từ lúc tham gia cách mạng đến nay, tính ra chỉ có 31 ngày tôi không lao động, đó là lúc bị thực dân Pháp cầm tù trong căn phòng chưa đầy 4m2, bốn bề cách biệt", theo hồi ức của ông, " một người làm cách mạng chuyên nghiệp" như tuyên bố dõng dạc trước tòa án thực dân.của người thanh niên trí thức đã rời nước Pháp, bỏ dở tấm bằng luật sư vốn là ước vọng của gia đình.
Người thanh niên ấy biết rõ nơi quê hương yêu dấu của anh không phải là vòng tay thân thương của bố mẹ và người vợ trẻ, mà là cánh cổng của Khám lớn Sài gòn đang chờ sẵn. Chính nơi đây, anh phải " lấy trung làm hiếu chứ làm sao khác được" (2).
Phẩm tiết cách mạng của người trí thức ấy không chỉ biểu lộ ra trong tù đày, cùm kẹp nơi nước sôi lửa bỏng mà còn trong sự hiếu thuận với cha mẹ và sự chung thủy gắn bó với người bạn đời của mình. Trong "Hồi ký", nói về lý do gửi trả Ban Tổ chức giấy mời đi nghỉ mát ở Liên Xô ông viết: " Từ năm 1930, tôi để vợ trẻ của tôi ở nhà một mình, đi mãi, đi miết, đi làm" cách mạng chuyên nghiệp" . Từ 1930 đó cho đến sau Genève, tôi chỉ được về nhà hai lần, một lần hơn tháng, một lần 9 ngày; hoạt động bí mật, ở tù, có vợ mà bỏ vợ ở nhà mãi; tôi kháng chiến ở Bắc, vợ kháng chiến ở Nam, hai đứa không ở gần nhau như vậy là gần một phần tư thế kỷ, hết tuổi trẻ. Nay, hoà bình lập lại, tôi không đi nghỉ hè đâu xa mà không có vợ tôi cùng đi. Vậy xin gởi lại giấy mời với lời cảm ơn thành thật chớ không phải là chút hờn mát nào, xin các đồng chí ở tổ chức biết cho".
Phải chăng từ cuộc đời của nhân vật có bóng dáng huyền thoại trong sự băn khoăn, ngưỡng mộ của công chúng về nhà cách mạng từng có những cống hiến lẫy lừng, hiện đang vét cạn sức cho công việc nghiên cứu và giảng dạy lịch sử, cần mẫn thực hiện sứ mệnh của người viết nên lịch sử này đã kiểm chứng cho luận điểm: " lịch sử của nền văn minh là sự gạn lọc qua hàng thế kỷ của một nhân cách tập thể, nhân cách này, cũng như mọi nhân cách cá nhân, bị kẹt giữa một số mệnh có ý thức và rõ ràng, với một số mệnh tù mù và không có ý thức, số mệnh này làm cơ sở và động lực cho số mệnh kia, nhưng không phải bao giờ cũng nhận thấy điều đó" (4).
Quả vậy, lịch sử chỉ thật sự sáng tỏ qua sự thanh lọc của thời gian và sự phán xét nghiêm minh của công luận. Đã không thiếu những sự kiện lịch sử, những nhân vật lịch sử từng bị bao phủ bởi một lớp sương mù dày đặc của những oan khuất và định kiến sai lầm hoặc của những tầm nhìn cạn hẹp và sự ngạo ngược của quyền uy. Thế nhưng tia sáng mặt trời sớm muộn cũng xua tan những lớp sương mù dày đặc ấy. Ánh sáng của chân lý tất yếu sẽ lộ ra.
Và nếu như lịch sử " góp phần xây dựng nhân cách, bản lĩnh con người" như lời nhắn gửi của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong thư gửi " Hội thảo bàn về thực trạng dạy và học sử"cách nay mấy năm, thì nhân cách và bản lĩnh của Trần Văn Giàu, người viết sử và người góp phần làm nên lịch sử của sự nghiệp cách mạng vẻ vang, đã đem đến cho lịch sử Việt Nam một minh chứng sống động về sự công minh của lịch sử. Vì rằng cuối cùng thì rồi lịch sử cũng trả về sự trung thực cần có cho những ai đã dám sống và biết sống một cách trọn vẹn cuộc đời của một con người. Sống theo triết lý rất dễ hiểu song không phải ai cũng hiểu được và thực hiện được: mỗi người chỉ sống có một lần, vì vậy phải sống như thế nào để lúc nhắm mắt xuôi tay không phải ân hận vì những phút sống hoài sống phí.
Ấy vậy mà người đã sống trọn "tuổi trời" đó " chỉ viết hồi ký khoảng thời gian 1940-1945, vì đó là thời gian sống có chất lượng hơn hết trong cuộc đời". Và cũng chỉ viết với một mục đích hết sức khiêm nhường là " chỉ mong cho cháu một đời sau mình biết được rằng ông nó đã gắng sức làm tròn trách nhiệm ở đời, đã sống có nhân cách. Thế là đủ" như ông đã ghi trong "Lời nói đầu" ngày 27 tháng 10 năm 1995 trong "Hồi Ký" của mình.
Trân trọng sự khiêm nhường của ông, nhưng cuộc đời hiểu rất rõ rằng, bên cạnh quãng " thời gian sống có chất lượng hơn hết trong cuộc đời" của nhà cách mạng ấy như ông tự nhận định, phần còn lại trong sự nghiệp Trần Văn Giàu vẫn tỏa sáng nhân cách của một trí thức dấn thân cho nghĩa cả của cuộc đời, biết sống và dám sống bất chấp mọi phũ phàng, ngang trái. Chính bản lĩnh của nhà cách mạng từng gánh vác trọng trách của Đảng nay trở về làm người thày giáo dạy sử, làm nhà khoa học lịch sử, góp phần viết nên lịch sử theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng của nó, đã ngời sáng một nhân cách trí thức trong lịch sử đương đại.
Con người ấy vẫn ung dung tự tại trên đôi guốc mộc, đi từ một căn phòng khiêm tốn của hai ông bà ở phố Phan Huy Chú sang phố Hàng Chuối, Hà Nội, nơi làm việc của Viện Sử học trong Ủy ban KHXHVN, cần mẫn như một con ong thợ cùng với những môn sinh và bạn đồng nghiệp xây nên nền sử học của nước nhà.
Là người thầy của thế hệ những nhà sử học có tên tuổi hiện nay, trên bục giảng hay trong một hội thảo khoa học, con người " trong thời điểm khó khăn nhất, khi các cơ sở cách mạng bị phá vỡ gần như tất cả, thế mà ông vẫn xây dựng được đội quân lên đến gần triệu thanh niên, trí thức trong vòng năm tháng. Trực tiếp lãnh đạo đội quân [không chính quy] ấy giành chính quyền ở miền Nam đúng khi thời cơ chạm cửa... ấy vẫn sôi nổi và chân thành trong sự hào sảng "rất Nam Bộ".
Mà quả thật, trong những nhà khoa học cầm bút, không mấy ai viết được nhiều như ông! Và rồi, như lời của vị Tổng thư ký công trình " Lịch sử Nam bộ kháng chiến" kể tiếp: " năm ngoái dù tuổi đã 99, lần tôi đến thăm, ông vẫn hừng hực nói về những vấn đề dân tộc mà mình quan tâm. Trong ông Sáu Giàu dằng dặc một tấm lòng yêu dân tộc và điều ấy chưa bao giờ nguôi cho đến lúc ông về với đất"(5).
Tiễn đưa ông về với đất mẹ, càng thấm thía hơn về sự nghiệp của ông đã góp vào công cuộc xây dựng nền văn hoá Việt Nam, hình thành cốt cách con người Việt Nam, càng hiểu ra được bản lĩnh cách mạng của nhà cách mạng, nhà khoa học lịch sử, nhà giáo dạy sử ấy. Ông đã tỏ rõ một nhân cách trí thức xứng đáng đi vào lịch sử. Mà dòng chảy lịch sử là bất tận, tạo nên sức mạnh bất diệt của dân tộc. Dòng chảy bất tận của cuộc sống với sức cuộn chảy từ bên dưới ấy sẽ tạo nên những hợp trội với những bứt phá, đưa sự nghiệp của dân tộc đi tới không gì cản được.
Thế hệ trẻ Việt Nam phải được hiểu kỹ về sức mạnh đó, phải được tắm mình vào trong dòng chảy miệt mài với những nhân cách góp phần tạo nên lịch sử như Trần Văn Giàu. Điều này có ý nghĩa lớn trong thời điểm nhạy cảm này.
______________
1,2 "Tuổi Trẻ" ngày 18.12.2010, tr.3, và ngày 19.12.2010 tr.5 .
3 ."Đại Đoàn Kết, ngày 18.12.2010, tr.5
4 Fernand Braudel. "Tìm hiểu cac nền văn minh"NXBKHXH.1992, tr. 87
5 "Pháp luật TPHCM ngày 20.12.2010, tr.3