Tính tốt của các thực phẩm chức năng có nguồn gốc từ thực vật
Rất nhiều nghiên cứu dịch tễ và thử nghiệm lâm sàng cho thấy chế độ ăn uống có nguồn gốc thực vật có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh mãn tính, đặc biệt là bệnh ung thư. Năm 1992, đánh giá của 200 nghiên cứu dịch tễ học (Block, 1992) cho thấy nguy cơ ung thư ở người sử dụng nhiều rau quả trong khẩu phần ăn chỉ khoảng một nửa so với số người tiêu thụ ít rau quả. Rõ ràng là các thành phần trong thực phẩm có nguồn gốc thực vật có khả năng làm giảm nguy cơ ung thư hơn các dạng thực phẩm khác. Steinmetz và Potter (1991) xác định hơn mười loại chất hóa học có hoạt tính sinh học cao trong thực vật được gọi dưới tên "phytochemicals". Các chuyên gia y tế đang dần dần nhận ra vai trò của phytochemicals trong nâng cao sức khỏe (Howard và Kritcheveky, 1997) và sử dụng các nguồn thực phẩm chứa các chất này trong chế biến các thực phẩm chức năng, bao gồm:
Hạt yến mạch:Các sản phẩm từ yến mạch có chứa nguồn chất xơ hòa tan beta-glucan có hiệu quả trong việc làm giảm hàm lượng cholesterol, ngăn ngừa hình thành khối u và bệnh ung thư. Các nghiên cứu cũng cho thấy rằng việc sử dụng thực phẩm này có thể làm giảm tổng số và mật độ LDL (lipoprotein tỷ trọng thấp) - cholesterol, do đó làm giảm nguy cơ bệnh mạch vành.
Đậu nành:Vai trò của đậu nành đã được biết đến trong những năm 1990. Đậu nành không chỉ có protein chất lượng cao (theo đánh giá của FDA, Hoa Kỳ) mà còn có vai trò dự phòng và điều trị các bệnh tim mạch, ung thư, loãng xương và các triệu chứng trong thời kỳ mãn kinh của phụ nữ. Tác dụng làm giảm cholesterol được xem là ảnh hướng tốt nhất của đậu nành. 38 nghiên cứu riêng biệt (liên quan đến 743 đối tượng) cho thấy rằng việc tiêu thụ protein đậu nành làm giảm đáng kể trong tổng số cholesterol (9,3%), LDL-cholesterol (12,9%), và triglyc-erides (10,5%), cùng với sự tăng một lượng nhỏ (khoảng 2,4%) HDL (Lipoprotein tỷ trọng cao)-cholesterol (Anderson, 1995) - là loại tốt cho sức khỏe. Một số chất chống ung thư đã được xác định trong đậu nành bao gồm các chất ức chế protease, phytosterols, saponins, phenolic acid, acid phytic, và isoflavones (Messina và Barnes, 1991). Trong số này, isoflavones (Genistein và Daidzein) được đặc biệt chú ý.
Cà chua:Cà chua đã được quan tâm nhiều do chứa lycopene là loại carotenoid chủ yếu (Gerster, 1997) với vai trò trong việc giảm nguy cơ ung thư (Weisburger, 1998). Trong nghiên cứu trên hơn 47.000 nam giới, những người tiêu thụ sản phẩm cà chua 10 lần hay nhiều hơn mỗi tuần sẽ giảm một nửa nguy cơ phát triển ung thư tuyến tiền liệt (Giovannucci, 1995). Điều thú vị là lycopene lại là dạng carotenoid phổ biến nhất trong tuyến tiền liệt (Clinton, 1996). Lycopene cũng có khả năng ngăn ngừa nguy cơ ung thư vú, đường tiêu hóa, cổ tử cung, bàng quang, da (Clinton, 1998) và phổi (Li, 1997). Tác dụng chủ yếu của lycopene là do chức năng chống oxy hóa của nó.
Tỏi:Tỏi ( Allium sativum) là loại thảo mộc có tính chất dược liệu (Nagourney, 1998) và đã được xếp hạng là loại thảo mộc bán chạy thứ hai tại Hoa Kỳ trong nhiều năm qua (Anon, 1998). Những lợi ích về sức khỏe của tỏi đã được công bố như hóa liệu phòng ngừa bệnh ung thư, thuốc kháng sinh, chống tăng huyết áp, giảm cholesterol (Srivastava, 1995) và phòng chống bệnh mạch vành. Các hương vị đặc trưng và vị cay của tỏi là do một sự hiện diện của hợp chất chứa lưu huỳnh hòa tan được trong nước và dầu. Tỏi chứa acid amin không mùi, alliin, được chuyển đổi bởi enzyme allinasethành allicinkhi tỏi được nghiền (Block, 1992). Allicinsau đó tự phân hủy để tạo thành hợp chất chứa lưu huỳnh có tác dụng hóa liệu phòng ngừa bệnh.
Các điều tra được tiến hành tại Trung Quốc cho thấy nguy cơ ung thư dạ dày giảm khi lượng alliumtrong tỏi cao. Gần đây, trong nghiên cứu trên hơn 40.000 phụ nữ ở thời kỳ mãn kinh, việc tiêu thụ tỏi đã làm giảm gần 50% nguy cơ ung thư ruột kết (Steinmetz, 1994).
Bông cải xanh và các loại rau cải khác:Các nghiên cứu dịch tễ học cho thấy có mối liên quan giữa việc tiêu thụ thường xuyên các loại rau cải với giảm nguy cơ ung thư. Verhoeven (1997) cho thấy các rau cải có chứa hàm lượng cao glucosinolates. Glucosinolates là một nhóm các glycosides được giữ trong không bào của tế bào của tất cả các loại rau cải. Myrosinase, một loại enzyme tìm thấy trong các tế bào thực vật, xúc tác cho một loạt các sản phẩm thủy phân, bao gồm isothiocyanates và Indoles. Indole-3 carbinol (I3C) hiện đang được nghiên cứu trong hóa liệu phòng ngừa ung thư tuyến vú.
Cam, chanh, quýt, bưởi:Một số nghiên cứu dịch tễ học cho thấy các loại trái này giúp bảo vệ cơ thể chống lại nhiều loại bệnh ung thư. Ngoài các chất dinh dưỡng quan trọng như vitamin C, folate và chất xơ, các loại trái cây này còn chứa một dạng chất "phytochemicals" là limonoids (Hasegawa và Miyake, 1996). Limonene được chứng minh là chất hỗ trợ ngăn ngừa ung thư có hiệu quả (Gould, 1997).
Cranberry:Nước quả cranbeny đã được công nhận là có hiệu quả trong điều trị nhiễm trùng đường tiết niệu từ năm 1914 (Blatherwick).
Trà:Thành phần được quan tâm đặc biệt chú ý là polyphenol chiếm đến 30% trọng lượng khô của lá trà tươi. Catechins là thành phần chủ yếu và quan trọng nhất của tất cả các polyphenol trà (Graham, 1992) với 4 hợp chất catechins chủ yếu là Epigallocatechin-3-gallate, Epigallocatechin, epicatechin-3-gallate và epicatechin. Trong những năm gần đây đã có rất nhiều nghiên cứu quan tâm đến tác dụng dược lý của trà và hầu hết là lợi ích của trà đối với sức khỏe trong hóa liệu phòng ngừa bệnh ung thư.
Nho và rượu vang:Các hợp chất phenol với hàm lượng cao trong rượu vang đỏ (gấp khoảng 20-50 lần so với rượu vang trắng) là do sự kết hợp của vỏ quả nho lên men và nước ép nho trong sản xuất rượu. Frankel và cộng sự (1993) cho thấy lợi ích tích cực của hợp chất phenol trong rượu vang đỏ có khả năng ngăn chặn sự oxy hóa LDL (một tác động quan trọng của quá trình xơ vữa động mạch). Rượu vang đỏ cũng là một nguồn đáng kể của trans-resveratrol, một phytoalexin có ở vỏ quả nho (Creasy và cà phê, 1988). Resveratrol cũng được chứng minh là chất có ích lợi cho tim mạch, và có khả năng ức chế chất gây ung thư (Jang, 1997).
Tuy nhiên, vấn đề đáng lưu ý là các loại đồ uống có cồn thường liên quan đến nguy cơ gia tăng của một số loại ung thư, bao gồm ung thư vú (Bowlin, 1997).