Tìm kho tàng của quân Mông Cổ ở đáy biển Đại Dương
Bắt đầu từ một trang sử liệu
Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT) trang 60 chép: “ngày 30 - 12 - 1287, Thái Tử Nguyên A Thai cùng Ô Mã Nhi họp 30 vạn quân đánh Vạn Kiếp rồi thuận dòng xuôi về Đông. Người các hướng Ba Điểm, Bàng Hà đều đầu hàng chúng.
Khi ấy, thuỷ quân Nguyên đánh vào Vân Đồn, Hưng Đạo Vương giao hết công việc biên thuỳ cho phó tướng Vân Đồn là Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư. Khánh Dư đánh thất lợi, Thượng Hoàng được tin, sai trung xứ xiềng Khánh Dư giải về kinh. Khánh Dư nói: “Lấy quân pháp mà xử, tôi cam chịu tội, nhưng xin khất hai, ba ngày để mưu lập công rồi về chịu tội búa rìu cũng chưa muộn”. Trung xứ theo lời xin đó.
Khánh Dư liệu biết quân giặc đã qua, thuyền vận tải tất theo sau, nên thu thập tàn binh đợi chúng. Chẳng bao lâu thuyền vận tải quả nhiên đến, Khánh Dư đánh bại chúng, bắt được quân lương khí giới của giặc nhiều không kể xiết, tù binh cũng rất nhiều…”.
Trong khi đó, Khâm Định Việt Sử thông giám cương mực,chính biên. VIII, 4 trang 532 chép: “Khánh Dư đoán chắc thuyền của giặc đã đi qua rồi, thì thuyền tải lương tất đi theo sau, liền thu thập tàn quân, sẵn sàng chờ đợi. Một lát sau, quả nhiên thuyền tải lương của Văn Hổ đến, Khánh Dư đón đánh, quân Nguyên bị thua to. Khi đến biển Lục Thuỷ, thuyền của quân Nguyên bị mắc cạn, sa lầy, không chở đi được, lương thực chìm cả xuống biển. Khánh Dư bắt được khí giới, quân nhu rất nhiều. Văn Hổ chỉ thoát được, vội vàng chạy về Quỳnh Châu…”.
Trong Nguyên sử q. 209, An Nam Truyện trang 9b - 10a chép: “Thuyền lương củ Trương Văn Hổ tháng 12 năm ngoái đến Đồn Sơn gặp 30 chiếc thuyền của Giao Chỉ. Văn Hổ đánh, số giết được tương đương nhau. Đến biển Lục Thuỷ thuyền giặc thêm nhiều, liệu không thể địch nổi mà thuyền lại nặng không thể đi được nên đổ thóc xuống biển rồi đi Quỳnh Châu”.
Đại Việt Sử Ký Tiền biêncủa Ngô Thì Sĩ trang 373 chép: “Tướng nhà Nguyên là Trương Văn Hổ chở thuyền lương tới, Khánh Dư đón đánh, quân giặc đại bại. Đến biển Lục Thuỷ lại đánh bại quân giặc, thuyền lương đều chìm xuống biển…”.
Trong sách Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Môngthế kỷ XIIIcủa Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm, trang 267: “Sau khi tách khỏi đoàn quân Thoát Hoan ở Lai Tân ngày 28 - 10 Âm lịch (4 - 12 - 1287), Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp đi Khâm Châu. Từ đây, đoàn thuyền của chúng xuất phát, Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp đem 1 vạn 8 nghìn quân, bọn Ô Vỵ, Trương Ngọc, Lưu Khuê đem vài vạn quân. Trương Văn Hổ đi với thyuền lương…
… Ô Mã Nhi sau khi qua được cửa An Bang, đã theo sông Bạch Đằng tiến về phía Vạn Kiếp. Hắn tưởng rằng quân ta không thể ngăn trở đoàn thuyền lương đi sau được nữa nên cứ tiến thẳng, không chú ý đến Trương Văn Hổ…
… Khánh Dư đã củng cố lực lượng đón địch. Quả nhiên, mọi việc xảy ra đúng như dự đoán. Tháng 12 Âm lịch (5 - 1 đến 2 - 2 - 1288), đoàn thuyền lương nặng nề của Trương Văn Hổ không có lực lượng chiến đấu yểm hộ tiến vào Vịnh Hạ Long, đã lọt vào trận địa của Nhân Huệ Vương. Thuỷ quân ta đã tập kích thyuền giặc ở Vân Đồn (Vân Hải). Trương Văn Hổ có gắng tiến về đất liền nhưng đến biển Lục Thuỷ (Cửa Lục, Hòn Gai) thì thuyền quân ta đổ ra đánh càng đông. Trương Văn Hổ đại bại, đổ cả thóc xuống biển, trốn chay về Quỳnh Châu (Hải Nam ). Thuyền lương của Phi Củng Thìn thì tháng 11 Âm lịch (6 - 12 - 1287 – 4 - 1 - 1288) mới đến Huệ Châu (huyện Huệ Dương, Quảng Đông), gặp gió bão trôi dạt đến Quỳnh Châu. Thuyền lương của Từ Khánh thì trôi dạt đến tận Chiêm Thành rồi cũng về quỳnh Châu. Quân ta chiến thắng, bắt được quân lương khí giới của giặc nhiều không kể xiết, tù binh cũng rất đông…”.
Còn Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lượctrang 151 viết: “Ô Mã Nhi đem thuyền đi đến Ải Vân Đồn (Vân Hải, Quảng Yên) gặp quân của Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư chặn đường không cho đi, Ô Mã Nhi thúc quân đánh rát một trận, quân Khánh Dư thua bỏ chạy. Quân Nguyên kéo thẳng ra bể đi đón thuyền lương… Được mấy hôm, Ô Mã Nhi ra bể gặp thuyền lương của Trương Văn Hổ, lại đem quân trở vào đi trước dẹp đường, Trương Văn Hổ đem thuyền lương theo vào sau… Trương Văn Hổ tải các thuyền lương vào cửa bể Lục Thuỷ Dương (phía đông nam huyện Hoành Bồ, tức Vịnh cửa Lục bây giờ), Khánh Dư đổ quân ra đánh, Văn Hổ địch không nổi, bao nhiêu thuyền lương bị quân Khánh Dư phá cướp mất cả, và bắt được khí giới rất nhiều…”.
Trong Việt Sử tân biêncủa Phạm Văn Sơn, nhà xuất bản Văn Hữu Á châu Sài Gòn, 1958 quyển II, trang 216 lại viết: “Trương Văn Hổ cho thuyền lương từ từ tiến vào cửa Lục (Lục Thuỷ Dương là cửa biển gần Hòn Gai, Tỉnh Quảng Yên). Tại đây thuyền lương mắc cạn. Quân ta phục sẵn ùa ra đánh, thuyền của đich đắm gần hết…”.
Trong cuốn sách Hạ Long Đá và Nướccủa Nguyễn Ngọc, nhà xuất bản Thế giới , Hà Nội, 1999, trang 66 viết: “Đoàn thuyền lương Trương Văn Hổ… qua khỏi đảo Ba Mùn vì sóng gió lớn chúng buộc phải chọn con đường vào cửa Đối, rồi men theo luồng nước hẹp gọi là sông Mang và sông Cái giữa hai đảo Cái Bàn và Vân Hải… rồi từng bước dụ chúng vào vịnh cửa Lục… Khánh Dư một mặt thắt chặt miệng túi cửa Lục lại, một mặt cho quân từ sông Bạch Đằng bốn mặt đổ ra tập kích…”.
Vậy đâu là hải trình thật của thuyền lương do Giao Chỉ Hải Thuyền Vạn Hộ Trương Văn Hổ chỉ huy, và toạ độ của trận đánh tiêu diệt chúng của danh tướng Trần Khánh Dư? Trước hết cần phải xác định một số địa danh cũ và đánh dấu nó trên bản đồ hiện tại.
Theo thứ tự các sách đã dẫn, thì gồm có Vân Đồn, biển Lục Thuỷ, Vân Hải, cửa Lục - Hòn Gai, cửa bể Lục Thuỷ Dương (phía đông nam huyện Hoành Bồ, tức vịnh cửa Lục bây giờ), Đảo Ba Mùn, cửa Đối, đảo Cái Bàn và Vân Hải, Bạch Đằng. Thực ra chúng ta chỉ tìm hiểu một số địa danh là Vân Đồn, cửa Lục, biển Lục Thuỷ, đảo Ba Mùn, cửa Đối, Cái Bàn, Vân Hải, Bạch Đằng và Mũi Ngọc là có thể hình dung khu vực của trận hải chiến này.
Biển Lục Thuỷ theo Khâm Định Việt sử thông giám cương mục, chính biên. VIII, 4 trang 533: Biển Lục Thuỷ ở phía đông nam huyện Hoành Bồ, cách huyện 17 dặm (hiện tại là vùng phía tây nam Đảo Cát Bà (Phù Long và thị trấn Cát Hải). Gọi là Lục Thuỷ vì nước biển có màu xanh lục (màu vert).
Vân Đồn: Vân Đồn nằm cách Hạ Long 50 km vè phía đông nam, nơi ghi dấu những sự kiện lịch sử như: Tháng 5 năm Kỷ Tỵ (1149), dưới thời vua Lý Anh Tông cho lập phố xá ở Vân Đồn, bấy giờ các nước Qua Oa (Java), Xiêm La (Thái Lan) có nhiều thuyền buôn đóng ở Hải Đông (Hoành Bồ - Cẩm Phả), nên vua cho lập khu riêng biệt trên Cù Lao để cho họ ở, gọi là Vân Đồn trang. Năm 1413, Đặng Dung ra Vân Đồn để chiêu mộ người và lương thực đánh quân Minh. Năm 1418, quân Minh cho lập sở để coi giữ việc mò tìm Ngọc Trai. Năm 1469, vua Lê Thánh Tông cho định lại bản đồ thì gọi là Châu Vân Đồn. Năm 1743, thời Trịnh Doanh, Nguyễn Hữu Cầu lập căn cứ tại Vân Đồn đánh nhau với chúa Trịnh. Năm 1775, Nguyễn Nhạc anh của vua Quang Trung giữ chức biện lại ở tuần Vân Đồn… Đến thời Tự Đức gọi là Tổng Vân Hải, huyện Nghiêu Phong, tỉnh Quảng Yên nay là huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.
Thương cảng cổ Vân Đồn có thể tập trung ở đảo Cái Bàn và Quan Lạn, dân trên đảo đa số là người Việt Nam, thương nhân Trung Quốc và một số người gốc Thái Lan, Nam Dương, Mã Lai.
Vịnh Hạ Long: Nằm ở đông bắc Việt Nam, là một phần của Vịnh Bắc Bộ, bao gồm vùng biển của thành phố Hải Phòng, thị xã Cẩm Phả và một Phần của huyện đảo Vân Đồn, Phía Tây Nam giáp Đảo Cát Bà, bờ biển dài 120 km, được giới hạn từ 106 058’ đến 107 022’ kinh đông và 20 045’ đến 20 050’ vĩ bắc, tổng diện tích 1.553 km 2, gồm 1.969 hòn đảo.
Đảo của Vịnh Hạ Long có 2 dạng là đảo Đá Vôi và đảo Phiến Thạch, tập trung ở hai vùng chính là vùng phía đông nam thuộc vịnh Bái Tử Long và vùng phía tây nam thuộc vịnh Hạ Long có tuổi kiến tạo địa chất từ 250 triệu điến 280 triệu năm.
Kế hoạch tấn công Đại Việt của Hốt Tất Liệt
Ngày 13 tháng 2 năm 1287, Hốt Tất Liệt cho thành lập “Chinh Giao Chỉ Hành Thượng Thư Tỉnh” đó là bộ chỉ huy tối cao điều khiển việc xâm lược Đại việt, bổ nhiệm tướng tá, sắp đặt quân số, chuẩn bị lương thực khí giới và giao cho con trai là Thái Tử Thoát Hoan làm tổng chỉ huy, kế hoạch tấn công vào Đại Việt chia làm ba hướng:
Hướng từ Vân Nam - Lào Cai - Yên Bái - Việt Trì do A Ruc chỉ huy.
Hướng từ Tư Minh - Lộc Bình - Lạng Sơn - Vạn Kiếp do chính Thoát Hoan - Trịnh Bằng Phi chỉ huy.
Hướng Khâm Châu - Móng Cái - Mũi Ngọc - Biển Lục Thuỷ - Bặch Đằng - Vạn Kiếp do Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp chỉ huy với 620 thuyền tham chiến.
Trương Văn Hổ, Phi Củng Thìn, Đào Mạnh Minh phụ trách 70 thuyền vận tải lương đi theo Ô Mã Nhi.
Sau 8 tháng chuẩn bị, ngày 11 - 10 - 1287, quân Mông Cổ xuất phát từ Hồ Bắc.
Ngày 18 - 12 - 1287, Thoát Hoan đến Tư Minh.
Ngày 25 - 12 - 1287, vượt Biên Giới dánh vào nước ta.
Ngày 29 - 12 - 1287, đến lạng Sơn.
Ngày 2 - 1 - 1288, thì Thoát hoan đã có mặt tại Vạn Kiếp, nghĩa là chỉ có 8 ngày sau khi vượt biên giới là quân thù đã tiến gần sát Thăng Long.
Ô Mã Nhi khởi hành từ Khâm Châu vào ngày 17 - 12 - 1287 và ngày 2 - 1 - 1288 đã có mặt tại Vạn Kiếp để hội quân với Thoát Hoan, Ô Mã Nhi đi mất gần nửa tháng mới đến được Vạn Kiếp.
Nhiệm vụ của Trương Văn Hổ
Trương Văn Hổ tải lương chính cho đoàn quân viễn chinh Mông Cổ. Để phòng bị bất trắc, Thoát Hoan cho dự trữ thêm một kho lương thực khí giới quân nhu ở Tư Minh dưới quyền điều động của Vạn Hộ Hạ Chỉ và Trương Ngọc.
Ở đây vài câu hỏi được đặt ra:
- Thời gian nào Trương Văn Hổ rời Khâm Châu?
- Trương Văn Hổ phải chuyển lương thực tới Vạn Kiếp chậm nhất là ngày nào?
- Vai trò của Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp trong việc hộ tống thuyền lương ra sao?
- Số thuyền chở lương và hộc lương của quân Mông Cổ là bao nhiêu?
- Việc thông tin liên lạc giữa chỉ huy của Thoát Hoan ở Vạn Kiếp đến Tư Minh và Khâm Châu nhanh nhất là mấy ngày?
- Hải trình lý tưởng từ Khâm Châu đến Vạn Kiếp sẽ di chuyển qua những đâu?
- Dự báo thời tiết ở biển đông mùa đó ra sao?
- Ai là người cố vấn cho Ô Mã Nhi và Trương Văn Hổ vạch ra hải trình này?
- Tại sao Trần Khánh Dư lại có thể dự đoán khi nói với trung sứ của vua Trần Nhân Tông là: “Lấy quân pháp mà xử, tôi cam chịu, nhưng xin khất hai, ba ngày để mưu lập công rồi về chịu tội búa rìu cũng chưa muộn”. Tại sao chỉ hai, ba ngày? Có phải Trần Khánh Dư biết chắc vị trí mình sẽ hạ kẻ thù? Vị trí đó nằm ở đâu? Có phải là cửa Lục như các nhà sử học sau này nói đến hay là ở một chỗ khác trên Lục Thuỷ Dương?
Hải trình Ô Mã Nhi
![]() |
Bản đồ Vịnh Hạ Long (Ha Long bay map) |
Trong nhiều tư liệu tham khảo, không thấy ghi ngày Trương Văn Hổ rời Khâm Châu và trận Trần Khanh Dư xảy ra ngày nào, nhưng nếu căn cứ vào thời gian khởi hành của Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp thì trong các tài liệu như Đại Việt sử ký toàn thư(ĐVSKTT), Khâm địnhViệt sử thông giám cương mục(KĐVSTGCM), Nguyên Sử, đều có chép sự kiện Thoát Hoan hội quân ở Vạn Kiếp, Nguyên Sử q. 14, bản kỳ, trang 11b chép: “Ngày Giáp Dần 28 tháng 11 (2 - 1 - 1288), Trấn Nam Vương đến Vạn Kiếp, tất cả các quân đều đến hội”. Trong Nguyên Sử q. 166, Phàn Tiếp lên hội quân với Thoát Hoan ở Vạn Kiếp.
ĐVSKTT tr. 60, chép: “…Thái Tử Nguyên A Thai (Thoát Hoan) cùng Ô Mã Nhi họp 30 vạn quân đánh Vạn Kiếp rồi thuận dòng xuôi về đông. Người các hướng Ba Điểm, Bàng Hà đều đầu hàng chúng”.
Trong An Nam chílược q. 4 chép: “Tháng 11 ngày Mậu Tuất (17 - 12 - 1287) Chu sư tiến trước qua cửa Vạn Ninh…” ở đây chỉ là Thuỷ quân (chu sư) của cánh Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp từ Khâm Châu tiến vào Vạn Ninh (Mũi Ngọc - Móng Cái), Nguyên Sửq. 4, trang 11b, chép ngày 20 - 12 - 1287, Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp mới vào Giao Chỉ.
Tóm tắt thời gian chuyển quân cánh đường thuỷ của Ô Mã Nhi từ Khâm Châu như sau:
Ngày 17 - 12 - 1287, khởi hành từ Khâm Châu.
Ngày 20 - 12 - 1287, vào hải phận Đại Việt có thể từ vùng Quần Đảo Vân Đồn cho đến vùng đảo Cát Bà.
Ngày 2 - 1 - 1288, Hội quân Ở Vạn Kiếp.
Trong vòng 12 ngày Ô Mã Nhi sẽ vượt qua cửa Nam Triệu hoặc đi qua eo biển nằm giữa thị trấn Cát Hải và Phú Long - Cát Bà hiện nay để vào sông Bạch Đằng rồi từ đó tiến về Vạn Kiếp - Thăng Long.
Cuộc chiến trên song Bạch Đằng trong lần xâm lược thứ ba này có thể phân tích ra làm 3 giai đoạn:
Hai giai đoạn đầu khi Ô Mã Nhi đi vào Hội quân ở Vạn Kiếp và khi Thoát Hoan sai Ô Mã Nhi ra rước thuyền lương của Trương Văn Hổ thì quân Mông Cổ làm chủ tình thế trên sông, quân Đại Việt chỉ có tập kích lẻ tẻ, Trần Hưng Đạo chỉ tung hết lực lượng phản công khi Thoát Hoan cho rút lui và trận quyết chiến xảy ra vào ngày 9 - 4 - 1288, với sự hiện diện của vua Trần Nhân Tông , Thượng Hoàng, Nguyễn Khoái và Trần Hưng Đạo. Quân Đại Việt đã đánh tan tác quân Mông Cổ, Ô Mã Nhi bị bắt sống, Trương Ngọc tử trận, Phàn Tiếp bị thương.
Lúc hội quân ở Vạn Kiếp là lúc mà Thoát Hoan rất cần được nghe báo cáo về các dữ liệu quân số, lương thực, tình hình nước Đại Việt, các điểm nóng để quyết định cho việc tổng tấn công tiêu diệt quân nhà Trần, chính lúc này Trương Văn Hổ phải có mặt, hoặc ít nhất là Ô Mã Nhi phải thông báo cho Thoát Hoan biết về tin tức tình hình các thuyền,, lúc này bộ chỉ huy của Mông Cổ ở Vạn Kiếp đã mất hoàn toàn liên lạc mà đáng lẽ ra thì Trương Văn Hổ phải có mặt trước khi hội quân vài ngày. Vì thế Thoát Hoan ra lệnh cho Ô Mã Nhi trở ra biển tìm Trương Văn Hổ.
KĐVSTGCM trang 534 chép: “Ô Mã Nhi đợi mãi không thấy thuyền tải lương của Trương Văn Hổ đến, bèn đánh phá Trại An Hưng, rồi lại đêm quân về Vạn Kiếp, chia ra đóng giữ các núi Tú Linh và Phả Lại để làm kế cố thủ”. Mặt khác, Thoát Hoan điều động kho dự trữ lương thực ít ỏi ở Tư Minh khi cho nhóm quân Nguyên cùng các nhân vật phản quốc như Lê Trắc, Lê Án và con trai Trần Ít Tắc theo hướng Tư Minh tiến vào Lạng Sơn. Ngày 1 - 2 - 1288, bị quân ta chặn đánh tan tác phải chạy trở về Trung Quốc.
Quân lương không được tiếp tế, quân Mông Cổ rơi vào thế khốn quẫn…
Từ thời gian và hải trình của Ô Mã Nhi có thể hình dung con đường Trương Văn Hổ sẽ đi qua.
Nếu tính sát với các thời điểm đã ghi trong sử liệu của Việt Nam và Trung Quốc thì có thể tính toán dễ suy ra gần đúng ngày khởi hành và thời điểm của trận hải chiến này.
Ngày 17 - 12 - 1287, Ô Mã Nhi khởi hành từ Khâm Châu.
Ngày 20 - 12 - 1287, vào hải phận Đại Việt có thể từ vùng quần đảo Vân Đồn cho đến vùng đảo Cát Bà.
Khi đi qua Mũi Ngọc bị Nhân Đức Hầu Toàn đem thuỷ quân chận đánh. Khi đến Vân Đồn bị Khánh Dư chận đánh lần thứ hai nhưng Khánh Dư đánh thất lợi, Thượng Hoàng được tin, sai trung sứ Xiềng Khánh Dư giải về Kinh.
Thông tin thất trận này muốn đến được tai vua Trần Nhân Tông đang ở Thăng Long thì người mang tin phải đi từ quần đảo Vân Đồn đến cửa sông Bạch Đằng, rồi từ Bạch Đằng chạy Ngựa tới Thăng Long, thời gian này nhanh nhất cũng mất ba ngày. Quyết định của vua Trần Nhân Tông sai Trung sứ đến bắt Khánh Dư đang ở tại Vân Đồn cũng mất ít nhất 4 đến 5 ngày, vì Trung sứ không thể đi hoả tốc như người chạy trạm.
Như vậy tổng cộng thời gian là: trên dưới 10 ngày kể từ khi Khánh Dư bị Ô Mã Nhi đánh bại cho đến lúc Khành Dư đánh chìm toàn bộ thuyền lương của Trương Văn Hổ, ta có thể suy ra là Trương Văn Hổ rời khỏi Khâm Châu vào ngày 30 tháng 12 năm 1287, nghĩa là sau khi Ô Mã Nhi khởi hành gần 2 tuần lễ và trận hải chiến này có thể xảy ra trong khoảng ngày 3 - 1 - 1288, tức là khoảng 3 đến 4 ngày sau.
Ai là người cố vấn cho Ô Mã Nhi và Trương Văn Hổ vạch ra cuộc hải trình này?
Từ thời Lý Anh Tông (1149) đã cho lập phố xá ở Vân Đồn, bấy giờ thuyền của nhiều nước hay đến buôn bán với nước ta. ĐVSKTT chép: “Trước đây Khánh Dư trấn giữ Vân Đồn, tục ở đó lái buôn bán làm nghề nghiệp sinh nhai, ăn uống, may mặc đều dựa vào khách buôn phương Bắc, cho nên quần áo, đồ dùng theo tục người bắc. Khánh Dư duyệt quân các trang, ra lệnh: “Quân trấn giữ Van Đồn là để ngăn phòng giặc Hồ, không thể đội nón của phương Bắc, sợ khi vội vàng khó lòng phân biệt, nên đội nón Ma lôi, ai trái tất phải phạt”.
Có thể hình dung được cư dân trên các đảo Cát Bà, Cái Bàn, Cái Bầu, Quan Lại, Cô Tô và các đảo nằm trong Vịnh Bắc Bộ, đặc biệt vùng Vịnh Hạ long, Bái Tử Long, Vân Đồn phần đông là những người buôn bán hay làm nghề đánh cá vì vùng biển ở đây nhiều hải sản, ngọc trai, trung bình có độ sâu 20 m, có nơi rất cạn chỉ vài mét như khoảng cách từ Cái Bàn đến Quan Lạn. Những người Trung Quốc sinh sống ở vùng này là người biết rõ về địa hình địa vật, con nước thuỷ triều lên xuống và con đường nào an toàn nhất, ngắn nhất, vị trí nào để ẩn nấp khi gặp gió bão có thể chính là những người đã giúp Ô Mã Nhi và Trương Văn Hổ vạch ra hải trình này. Đó là con đường đi men theo hải trình mà các thương thuyền hay qua lại, con đường đó từ Khâm Châu ngang qua Mũi Ngọc, ngang qua đảo Vinh Thực, ngang qua giữa quần đảo Cô Tô và quần đảo Vân Đồn (Gồm có đảo Ba Mùn (Đảo Cao Lô) Cửa Đối, Đảo Quan Lại) rồi đi ngang qua đảo Thượng Mai, đi sát đảo Hạ Mai đánh một vòng cung qua đảo Long Châu rồi tiến vào Bạch Đằng qua cửa Nam Triệu.
Nếu lộ trình này từ Vân Đồn đi vào Vịnh Hạ Long rồi đi qua Cửa Lục và trận chiến xảy ra ở đây như nhiều nhà sử học sau này mô tả thì rất khó hiểu vì trong vịnh Cửa Lục không có con sông nào đổ ra sông Bạch Đằng. Vả lại muốn vào Cửa Lục thì phải đi qua mấy trăm hòn đảo nhỏ vô cùng nguy hiểm và rất rễ bị tập kích, trong khi đó mục đích của Trương Văn Hổ là vào Bạch Đằng để đi Vạn Kiếp, cho nên nói trận hải chiến xảy ra trên biển Lục Thuỷ hay ở tại Vân Đồn là chính xác.
Tương quan lực lượng của Mông Cổ và Đại Việt
Hưng Đạo Vương giao hết công việc biên thuỳ cho phó tướng Vân Đồn là Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư, Khánh Dư là người thông thạo vùng biển Vịnh Bắc Bộ, trong hai cuộc chống quân Mông Cổ trước có lẽ Trần Hưng Đạo và Khánh Dư biết chắc rằng một trong những mũi tấn công của kẻ thù phương bắc nếu có sẽ là hướng từ Khâm Châu - Móng Cái - Bạch Dằng vì thế việc nghiên cứu địa hình, những nét đặc thù của các quần đảo như Cô Tô, Vân Đồn, Cái Bầu, Cát Bà và những vùng đất địa đầu như Mũi Ngọc, Trà Cổ, Vinh Thực, Chàng Tây, Long Châu là không thể thiếu được vì đó là vành đai vòng cung bảo vệ cho phần đất bên trong, ở trên đỉnh của các đảo đó những tổ tiền tiêu có thể quan sát hết các hoạt động di chuyển của hải quân Mông Cổ rất dễ dàng.
Trần Khánh Dư đã từng nói: “Trận nghĩa là “trần” là bày ra, là khéo léo. Ngày xưa Hoàng đế lập phép tỉnh điền để đặt binh chế. Gia Cát xếp đá sông làm bát trận đồ, Vệ Công (đời Đường) sửa lại làm thành Lục hoa trận (trận lớn bọc trận nhỏ). Hoàng Ôn đời Tấn lập ra Xà thế trận có vẽ các thế trận hay, trình bày thứ tự rõ ràng, trở thành khuôn phép”.
Cuộc chạm trán đầu tiên và thất bại của Trần Khánh Dư đối với đội hải quân hùng hậu với 650 chiến thuyền của Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp, đã giúp cho Trần Khánh Dư kinh nghiệm và hiểu rõ hơn con đường mà Trương Văn Hổ sẽ phải đi qua, cuộc chiến thắng dễ dàng của Ô Mã Nhi lại là một cái bẫy giăng ra cho Trương Văn Hổ sa vào ổ phục kích của Khánh Dư vì khinh thường và thiếu đề cao cảnh giác đối với quân Đại Việt. Sự thất bại của Khánh Dư có thể là do sự yếu kém của quân Đại Việt trước lực lượng hùng hậu của Mông Cổ mà cũng có thể là ý đồ của danh tướng họ Trần chăng?
Ta có thể hiểu được ẩn ý của việc thất bại đầu tiên này của Khánh Dư qua câu nói của ông: “… Những người đương thời ít ai hiểu được, thấy muôn đầu ngàn mối, cho là rối rắm chưa từng biến đổi. Như Lý Thuyên (đời Đường) soạn những lời suy diễn của mình, những người đời sau cũng không hiểu ý nghĩa…”.
Nhưng dù sao sự thất bại này là hoàn toàn có lợi trong việc tiêu diệt 70 thuyền lương của Trương Văn Hổ sau này.
Trần Khánh Dư chỉ cần 100 chiến thuyền là có thể tiêu diệt nhanh gọn 70 chiếc thuyền lương nặng nề của Trương Văn Hổ, nhưng với 100 chiếc đó nếu giao chiến thì sẽ bị 650 chiến thuyền của Ô Mã Nhi đè bẹp nuốt chửng ngay tức khắc.