Thuốc ngừa thai
Phân loại thuốc ngừa thai
Tất cả các thuốc ngừa thai đều có thành phần hoạt chất hormon, thông thường ở dạng kết hợp ethinyl estradiol với progesteron hay chỉ một mình progesteron.
Dạng thuốc viên kết hợp lại chia ra làm 1 pha, 2 và 3 pha. Dạng chỉ có progesteron có thể uống hàng ngày hay chỉ dùng khi giao hợp không bảo vệ.
Những thuốc trên thường ở chế độ 21 + 7 có nghĩ là 21 ngày hormon và 7 ngày giả dược và bệnh nhân sẽ có 1 kỳ kinh nguyệt giả hàng tháng do hormon xuống thấp. Để tránh kinh nguyệt hàng tháng bất tiện, các nhà sản xuất thiết kế chế độ 24 + 4 có nghĩa là 24 ngày viên hormon và 4 ngày viên giả dược để kinh ít hơn và ngày có kinh ngắn lại, hoặc chế độ 84 + 4. Những viên thuốc kéo dài chu kỳ kinh nguyệt này thường gây xuất huyết nửa chừng (bất thường) hay đốm huyết.
Ngoài thuốc viên, còn có dạng thuốc tiêm bắp, dạng vòng đặt vào âm đạo, dạng kẹo ngậm, dạng cấy dưới da…
Thành phần thuốc viên
Viên thuốc ngừa thai đầu tiên xuất hiện ở Mỹ năm 1961 là một kết hợp estroprogestatif đơn tướng (21 viên đều có liều lượng khá cao gồm 150 mcg mestranol và 9,85 mg norethynodrel). Viên thuốc ngừa thai bán ra thị trường đầu tiên ở Đức năm 1961 mỗi viên có 50 mcg ethinylestradiol (EE) và 4 mg norethisteron (NET). Vì liều lượng kích thích tố nữ trong viên thuốc khá cao nên thời gian ấy nhiều báo cáo cho thấy có tác dụng phụ như chứng huyết khối, suy gan, nhức đầu, tăng cân…
![]() |
Ngày nay những công thức mới với liều lượng EE thấp hơn kết hợp với nhiều progestogen khác nhau đã giảm đáng kể tác dụng phụ.
Năm 1965 - 1966, thuốc viên ngừa thai chỉ chứa progestogen (minipill, Depot - Progestegens) được đưa ra thị trường lần đầu tiên tại Mexico cho thấy ít phản ứng phụ và không làm tăng chứng huyết khối.
Thành phần và chỉ định hormon trong viên thuốc ngừa thai
- Estrogen: 35 mcg EE (Ethinyl Estradiol)
- Estrogen: 50 mcg, dành cho:
+ Bệnh nhân đang dùng thuốc chống động kinh.
+ Dùng ngắn hạn cho phụ nữ ra máu bất chợt giữa chu kỳ không cải thiện được.
+ Dùng ngắn hạn cho phụ nữ tồn tại u nang buồng trứng.
- Progestin với hoạt động androgen thấp (hoặc < 1mg norethindrone hay 0,25 mg norgestinmat), còn có thêm tác dụng:
- Giảm mụn.
- Giảm mọc lông trên da.
- Tăng HDL.
Yasmin và Yaz (drospirenon) chất chuyển hóa có hoạt tính của spironolacton (kháng aldosteron) tính chống androgen nên bớt sình bụng, ứ nước và giảm mụn và không tăng ăn ngon miệng và chống hoạt động mineralocorticoid, có thể đảo ngược tính giữ Na +của enthinyl estradiol.
Chống chỉ định và thận trọng
Trước khi bắt đầu dùng, phụ nữ cần đi bác sĩ khám một lần, để chọn loại thuốc, cách dùng phù hợp với tình trạng của mình và để biết các chống chỉ định nếu có đối với mình. Trong quá trình dùng thuốc nếu thấy có phản ứng phụ gì, nên báo cho bác sĩ để chọn loại thuốc khác. Sau đó định kỳ 6 hoặc 12 tháng nên đi khám phụ khoa một lần, để kiểm tra sức khỏe chung.
Không dùng cho phụ nữ bị bệnh tim mạch (suy giãn tĩnh mạch, xơ vữa động mạch, huyết áp cao, bệnh mạch vành, hở van tim, suy gan, thận, ung thư vú, tử cung dạng lệ thuộc nội tiết tố nữ, rối loạn lipid máu, đái tháo đường. Người bị mập phì, u nang ở vú, buồng trứng, bị chứng chảy sữa, sỏi thận thì phải hỏi ý kiến bác sĩ trước khi dùng.
![]() |
Sự an toàn của thuốc viên ngừa thai không giống nhau
Nghiên cứu ở Âu châu tìm thấy một số hormon dùng trong thuốc uống ngừa thai tăng hay giảm nguy cơ huyết khối ở chân và phổi.
Các nhà khoa học từ lâu đã biết thuốc uống ngừa thai, chứa nội tiết tố nữ estrogen và progestogen, tăng khả năng sinh huyết khối tĩnh mạch sâu ở chân và nghẽn mạch phổi, nhưng nghiên cứu mới ở Đan Mạch và Hà lan xác nhận vài thứ thuốc an toàn hơn những thuốc ngừa thai khác:
- Thuốc chứa progestogen đời thứ hai - levonorgestrel và norgestrel - và liều thấp estrogen an toàn nhất.
- Thuốc cũng chứa hàm lượng estrogen ngang nhau, nhưng có progestogen desogestrel tăng gấp đôi nguy cơ so với viên chứa levonorgestrel.
So sánh hiệu quả của các biện pháp bằng chỉ số Pearl
Người ta đánh giá hiệu quả của biện pháp ngừa thai bằng chỉ số Pearl. Đó là số lần có thai (vỡ kế hoạch) trong 100 phụ nữ áp dụng trong 1 năm (mỗi người có 12 chu kỳ). Chỉ số này càng lớn chứng tỏ càng ít hữu hiệu với thuốc viên ngừa thai, Pearl = 0,15 - 0,45 với các viên phối hợp estroprogestatif, liều thường hoặc vi liều; 0,4 - 0,7 với các estroprogestatif đơn tướng; 0,5 với các progestatif liều thường; 1 - 1,6 với các progestatif vi liều. So sánh với các biện pháp khác: 1 với vòng xoắn, 5 với màng chắn cổ tử cung, 0,3 - 5 với thuốc diệt tinh trùng, 0,8 - 8 với bao cao su, 17 - 25 với xuất tinh ngoài âm đạo, 15 với phương pháp Ogino - Knauss; 2 - 6 với phương pháp đo thân nhiệt, 1 - 40 với phương pháp Billing (tự quan sát chất nhờn cổ tử cung), 0,3 với phương pháp thắt ống dẫn trứng, 80 nếu không kế hoạch nào cả.