Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 09/10/2007 15:41 (GMT+7)

Thực trạng và giải pháp cho nguyên liệu đầu vào của ngành công nghiệp xi măng

Theo điều chỉnh quy hoạch phát triển ngành công nghiệp xi măng đến năm 2010 nhu cầu xi măng là 43,1 - 51,28 triệu tấn, đến năm 2015: 63,0 đến 65,0 triệu tấn và 2020: 68 đến 70 triệu tấn. Như vậy để đáp ứng mức độ phát triển này thì yêu cầu nguồn nguyên liệu chính là đá vôi và đất sét cũng tăng lên nhiều lần (bảng 1).

Bảng 1: Bảng tổng hợp nhu cầu xi măng và nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất xi măng đến năm 2020.

N 0

Năm

Xi măng (triệu tấn)

Nguyên liệu (triệu tấn)

Đá vôi

Đá sét

1

2010

43,1 - 51, 28

57,20

10,70

2

2015

64,0 - 65,0

66,95

12,51

3

2020

68 - 70

88,00

14,00

1. Thực trạng nguồn nguyên liệu để sản xuất xi măng

Nguồn nguyên liệu để sản xuất xi măng ở nước ta dồi dào, có chất lượng khá tốt tạo điều kiện thuận lợi cho ngành công nghiệp xi măng phát triển.

Tuy nhiên sự phân bố các khoáng sản đá vôi không đồng đều, chỉ tập trung ở một vài vùng chủ yếu, chất lượng thay đổi, điều kiện khai thác khó khăn. Một số khoáng sàng nằm trong khu vực di tích lịch sử, di tích văn hoá, hoặc nằm trong quy hoạch phòng thủ bảo vệ của Bộ Quốc phòng nên không được phép khai thác (như trữ lượng đá vôi đã khảo sát tại khu vực Kiên Giang là 429 triệu tấn nhưng có tới 185 triệu tấn không được khai thác vì các lý do liên quan đến di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh và an ninh Quốc phòng). Một số mỏ nguyên liệu có chất lượng và trữ lượng rất tốt để sản xuất xi măng nhưng phân bố ở các vùng sâu, vùng xa, do đó việc đầu tư khai thác không đem lại hiệu quả kinh tế. Đến nay công tác điều tra, khảo sát mỏ chưa thực sự được quan tâm đúng mức nên không đánh giá được chính xác chất lượng và giá trị sử dụng của mỏ nguyên vật liệu.

Căn cứ vào điều kiện phân bố, vận chuyển và khả năng khai thác, hiện cả nước có 8 khu vực có triển vọng phát triển ngành công nghiệp xi măng là: Quảng Ninh, Hải Phòng - Hải Dương, Hoà Bình - Hà Tây - Hà Nam - Ninh Bình - Bắc Thanh Hoá, Nam Thanh Hoá - Nghệ An, Quảng Bình - Quảng Trị - Thừa Thiên Huế, Quảng Nam - Đà Nẵng, Tây Ninh - Bình Phước, Kiên Giang. Những khu vực có triển vọng phát triển thường gắn liền với khả năng tiêu thụ lớn và mạng lưới giao thông phát triển, đặc biệt là giao thông đường thuỷ.

a) Nguồn nguyên liệu đá vôi

Trong thành phần phối liệu để sản xuất xi măng, đá vôi chiếm tỷ trọng khoảng 80%. Đến nay, trong số 190 mỏ đá vôi đã được khảo sát thì trữ lượng dự báo khoảng 22 tỷ tấn. Trong đó có 28 mỏ đá vôi có quy mô lớn (trữ lượng hơn 100 triệu tấn), 19 mỏ có quy mô vừa (trữ lượng khoảng 20 tấn đến 100 triệu tấn). Các mỏ đá vôi tập trung chủ yếu ở các vùng ít có hoạt động uốn nếp, đứt gãy cũng như các hoạt động mac ma xâm nhập và phun trào.

Đa số các mỏ đá vôi đã được thăm dò đều được khai thác triệt để và có hiệu quả. Song tình hình khai thác tự phát và không đảm bảo các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật còn khá nhiều. Điển hình là tình trạng các địa phương tự ý khai thác không theo quy hoạch làm phá vỡ quy hoạch hoặc sử dụng nguồn đá vôi không có hiệu quả như đá vôi có chất lượng tốt để sản xuất xi măng đã bị sử dụng vào các mục đích khác. Đặc biệt và phổ biến là các mỏ công suất vừa và nhỏ, khai thác chạy theo lợi ích trước mắt, khai thác không có quy hoạch thiết kế đã gây ảnh hưởng lớn đến môi trường, an toàn và tổn thất nguyên liệu, gây mất hiệu quả lâu dài. Hơn nữa công tác quản lý nhà nước về nguồn nguyên liệu tại địa phương chưa thực sự nghiêm túc, nhiều mỏ tại các địa phương khai thác không có giấy phép, không có thiết kế, gây mất an toàn lãng phí tài nguyên.

b) Nguồn nguyên liệu đất sét

Ngoài đá vôi thì đất sét cũng là một loại nguyên liệu chính trong sản xuất xi măng. Trong thành phần phối liệu của xi măng đất sét chiếm tỷ trọng khoảng 20%. Trong số 102 mỏ sét đã được khảo sát có trữ lượng khoảng 2, 932 tỷ tấn. Trong đó trữ lượng cấp A + B + C1 chiếm khoảng 1,56 tỷ tấn. Diện phân bố các mỏ sét được tập trung chủ yếu ở các vùng Đông Bắc, Bắc Trung Bộ, đồng bằng sông Hồng và Tây Bắc. Các mỏ sét được tạo thành thường đi kèm với các mỏ đá. Đây chính là một yếu tố địa chất đặc biệt góp phần cho các dự án xi măng phát triển thuận lợi (bảng 2).

Bảng 2

N 0

Khu vực

Trữ lượng

Đá vôi

Đá sét

1

Quảng Ninh

1.483,894

229,295

2

Hải Phòng - Hải Dương

856,138

216,454

3

Hoà Bình - Hà Tây - Hà Nam - Binh Bình - Bắc Thanh Hoá

3.800,269

828,203

4

Nam Thanh Hoá - Nghệ An

614,292

346,400

5

Quảng Bình - Quảng Trị - Thừa Thiên Huế

1.574,511

317,219

6

Quảng Nam - Đà Nẵng

562,400

16,374

7

Tây Ninh - Bình Phước

258,903

102,142

8

Kiên Giang

260,000

54,305

Cộng

9.442,408

2.110,824

2. Giải pháp cho nguồn nguyên liệu

Với những số liệu nêu trên cho chúng ta thấy, nguồn nguyên liệu đầu vào cho xi măng mặc dù rất dồi dào nhưng tốc độ phát triển như hiện nay thì trong tương lai không xa thì nguồn nguyên liệu đầu vào cho xi măng sẽ trở nên khó khăn.

Vấn đề đặt ra cho các nhà quản lý hiện nay là cần kịp thời áp dụng mọi biện pháp để nâng cao hệ số sử dụng nguyên liệu. Tận thu tối đa tài nguyên, sử dụng hợp lý tài nguyên vào từng mục đích cụ thể theo chất lượng. Ngay hiện nay, một số nhà máy xi măng mặc dù nguồn nguyên liệu vẫn còn đủ cho nhu cầu sản xuất trong nhiều năm tới, nhưng đã quan tâm tới dự trữ nguyên liệu cho tương lai, như các nhà máy xi măng Hoàng Thạch, xi măng Hà Tiên 2 và một số các dự án xi măng mới như xi măng Sông Thao, xi măng Long Thọ, xi măng - clinke Hà Tiên đã khảo sát phần trữ lượng nằm dưới mức thoát nước tự chảy.

Khai thác nguyên liệu đá vôi, đá sét dưới mức thoát nước tự chảy là một trong những phương pháp khai thác nhằm tận dụng tối đa nguồn nguyên liệu. So với phương pháp khai thác thông thường (đá vôi, đá sét nổi) thì khi khai thác dưới mức thoát nước tự chảy có nhiều đặc điểm hơn về công nghệ, thiết bị, cũng như về đầu tư cơ bản. Các công trình xây dựng cơ bản mỏ, khai thác mỏ thường phải xử lý các vấn đề kỹ thuật phức tạp hơn, đặc biệt là vấn đề địa chất thủy văn, bơm thoát nước mỏ…

3. Kết luận

Vấn đề nguồn nguyên liệu đầu vào cho ngành công nghệ xi măng sẽ trở nên khó khăn trong một tương lai không xa. Việc đánh giá nguồn nguyên liệu cũng như sử dụng có hiệu quả và hợp lý nguồn nguyên liệu là hết sức cần thiết. Nâng cao trình độ quản lý ngành, nâng cao năng lực của các đơn vị tư vấn, quy hoạch thiết kế mỏ nguyên liệu, đơn vị khai thác và sử dụng nguyên liệu hợp lý là một trong những công tác cần được chú trọng hàng đầu.

Cơ quan quản lý nhà nước về ngành xi măng cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa với các cơ quan quản lý tài nguyên môi trường, văn hoá thông tin, quốc phòng, giao thông để có quy hoạch chi tiết các mỏ nguyên liệu nhằm sử dụng triệt để và đúng mục đích nguồn tài nguyên mà vẫn giữ được cảnh quan, môi trường và an ninh quốc gia. Giải pháp kỹ thuật nhằm tận dụng tối đa tài nguyên lòng đất là áp dụng công nghệ khai thác các mỏ nguyên liệu dưới mức thoát nước tự chảy, một công nghệ mang lại hiệu quả to lớn không chỉ về kinh tế mà còn về an toàn lao động và bảo vệ môi trường.

Xem Thêm

Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Ngày 25/6/2025, tại Tp. Huế, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) chủ trì, phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thành phố Huế (Liên hiệp Hội TP. Huế) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức để góp phần tích cực cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023”.
An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Sửa Luật Đất đai 2024: Đề xuất 2 phương án về bảng giá đất, bỏ "nguyên tắc thị trường"
Tại Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai 2024, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề xuất bỏ nguyên tắc thị trường trong xác định giá đất, thay vào đó Nhà nước đóng vai trò chủ thể xác định; đồng thời đề xuất 2 phương án khi xây dựng bảng giá đất...
Diễn đàn Dầu khí và Năng lượng 2025: Thúc đẩy hình thành hệ sinh thái năng lượng an toàn, hội nhập
Ngày 28/7, Diễn đàn Dầu khí và Năng lượng thường niên 2025 với chủ đề “Chuyển dịch năng lượng: Tầm nhìn và Hành động” đã diễn ra tại Hà Nội do Hội Dầu khí Việt Nam (Hội DKVN) phối hợp cùng Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) tổ chức. Diễn đàn là một trong những sự kiện quan trọng Chào mừng Đại hội đại biểu Đảng bộ Petrovietnam lần thứ IV, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đoàn công tác VUSTA tham dự Cuộc họp lần thứ 33 Đại hội đồng FEIAP tại Thái Lan
Từ ngày 23-25/7/2025, đoàn công tác của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) do ông Nguyễn Quyết Chiến - Tổng Thư ký làm Trưởng đoàn đã tham dự Cuộc họp lần thứ 33 Đại hội đồng Liên đoàn các tổ chức Kỹ thuật châu Á - Thái Bình Dương (FEIAP) tại Bangkok, Thái Lan. Tham gia đoàn công tác có đại diện Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng VUSTA.
Chủ tịch VUSTA Phan Xuân Dũng dự Lễ kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam
Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam được thành lập ngay sau giải phóng năm 1975. Trong suốt 50 năm qua, Hội đã có nhiều đóng góp quan trọng cho hoạt động tư vấn chính sách đối với các vấn đề trọng đại của đất nước. Gần đây nhất là phản biện trong góp ý văn kiện Đại hội XIII và XIV của Đảng, các đề án tăng trưởng xanh, đường sắt cao tốc, quy hoạch vùng và dự thảo nhiều chính sách kinh tế quan trọng...
Lãnh đạo VUSTA tham dự Hội nghị IAS 2025
Đoàn công tác của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) do PGS.TS Phạm Ngọc Linh, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Phó Chủ tịch VUSTA, Giám đốc Ban Quản lý dự án Quỹ Toàn cầu - VUSTA về phòng, chống HIV/AIDS làm trưởng đoàn đã tham dự Hội nghị Khoa học quốc tế về phòng, chống HIV/AIDS 2025 (Hội nghị IAS 2025) tại Rwanda từ ngày 12/7 đến ngày 17/7/2025.
Thắp nến tri ân nhân Kỷ niệm 78 năm Ngày Thương binh Liệt sĩ
Ngày 24/7, nhân kỷ niệm 78 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7/1947–27/7/2025), Đoàn TNCS Hồ Chí Minh Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam phối hợp cùng Đoàn Thanh niên Hội Nhà báo Việt Nam và Liên minh Hợp tác xã Việt Nam trang trọng tổ chức Chương trình “Thắp nến tri ân” tưởng niệm các Anh hùng liệt sĩ tại Nghĩa trang Mai Dịch (Cầu Giấy, Hà Nội).