Thực trạng và giải pháp cho nguyên liệu đầu vào của ngành công nghiệp xi măng
Theo điều chỉnh quy hoạch phát triển ngành công nghiệp xi măng đến năm 2010 nhu cầu xi măng là 43,1 - 51,28 triệu tấn, đến năm 2015: 63,0 đến 65,0 triệu tấn và 2020: 68 đến 70 triệu tấn. Như vậy để đáp ứng mức độ phát triển này thì yêu cầu nguồn nguyên liệu chính là đá vôi và đất sét cũng tăng lên nhiều lần (bảng 1).
Bảng 1: Bảng tổng hợp nhu cầu xi măng và nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất xi măng đến năm 2020.
N 0 | Năm | Xi măng (triệu tấn) | Nguyên liệu (triệu tấn) | |
Đá vôi | Đá sét | |||
1 | 2010 | 43,1 - 51, 28 | 57,20 | 10,70 |
2 | 2015 | 64,0 - 65,0 | 66,95 | 12,51 |
3 | 2020 | 68 - 70 | 88,00 | 14,00 |
1. Thực trạng nguồn nguyên liệu để sản xuất xi măng
Nguồn nguyên liệu để sản xuất xi măng ở nước ta dồi dào, có chất lượng khá tốt tạo điều kiện thuận lợi cho ngành công nghiệp xi măng phát triển.
Tuy nhiên sự phân bố các khoáng sản đá vôi không đồng đều, chỉ tập trung ở một vài vùng chủ yếu, chất lượng thay đổi, điều kiện khai thác khó khăn. Một số khoáng sàng nằm trong khu vực di tích lịch sử, di tích văn hoá, hoặc nằm trong quy hoạch phòng thủ bảo vệ của Bộ Quốc phòng nên không được phép khai thác (như trữ lượng đá vôi đã khảo sát tại khu vực Kiên Giang là 429 triệu tấn nhưng có tới 185 triệu tấn không được khai thác vì các lý do liên quan đến di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh và an ninh Quốc phòng). Một số mỏ nguyên liệu có chất lượng và trữ lượng rất tốt để sản xuất xi măng nhưng phân bố ở các vùng sâu, vùng xa, do đó việc đầu tư khai thác không đem lại hiệu quả kinh tế. Đến nay công tác điều tra, khảo sát mỏ chưa thực sự được quan tâm đúng mức nên không đánh giá được chính xác chất lượng và giá trị sử dụng của mỏ nguyên vật liệu.
Căn cứ vào điều kiện phân bố, vận chuyển và khả năng khai thác, hiện cả nước có 8 khu vực có triển vọng phát triển ngành công nghiệp xi măng là: Quảng Ninh, Hải Phòng - Hải Dương, Hoà Bình - Hà Tây - Hà Nam - Ninh Bình - Bắc Thanh Hoá, Nam Thanh Hoá - Nghệ An, Quảng Bình - Quảng Trị - Thừa Thiên Huế, Quảng Nam - Đà Nẵng, Tây Ninh - Bình Phước, Kiên Giang. Những khu vực có triển vọng phát triển thường gắn liền với khả năng tiêu thụ lớn và mạng lưới giao thông phát triển, đặc biệt là giao thông đường thuỷ.
a) Nguồn nguyên liệu đá vôi
Trong thành phần phối liệu để sản xuất xi măng, đá vôi chiếm tỷ trọng khoảng 80%. Đến nay, trong số 190 mỏ đá vôi đã được khảo sát thì trữ lượng dự báo khoảng 22 tỷ tấn. Trong đó có 28 mỏ đá vôi có quy mô lớn (trữ lượng hơn 100 triệu tấn), 19 mỏ có quy mô vừa (trữ lượng khoảng 20 tấn đến 100 triệu tấn). Các mỏ đá vôi tập trung chủ yếu ở các vùng ít có hoạt động uốn nếp, đứt gãy cũng như các hoạt động mac ma xâm nhập và phun trào.
Đa số các mỏ đá vôi đã được thăm dò đều được khai thác triệt để và có hiệu quả. Song tình hình khai thác tự phát và không đảm bảo các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật còn khá nhiều. Điển hình là tình trạng các địa phương tự ý khai thác không theo quy hoạch làm phá vỡ quy hoạch hoặc sử dụng nguồn đá vôi không có hiệu quả như đá vôi có chất lượng tốt để sản xuất xi măng đã bị sử dụng vào các mục đích khác. Đặc biệt và phổ biến là các mỏ công suất vừa và nhỏ, khai thác chạy theo lợi ích trước mắt, khai thác không có quy hoạch thiết kế đã gây ảnh hưởng lớn đến môi trường, an toàn và tổn thất nguyên liệu, gây mất hiệu quả lâu dài. Hơn nữa công tác quản lý nhà nước về nguồn nguyên liệu tại địa phương chưa thực sự nghiêm túc, nhiều mỏ tại các địa phương khai thác không có giấy phép, không có thiết kế, gây mất an toàn lãng phí tài nguyên.
b) Nguồn nguyên liệu đất sét
Ngoài đá vôi thì đất sét cũng là một loại nguyên liệu chính trong sản xuất xi măng. Trong thành phần phối liệu của xi măng đất sét chiếm tỷ trọng khoảng 20%. Trong số 102 mỏ sét đã được khảo sát có trữ lượng khoảng 2, 932 tỷ tấn. Trong đó trữ lượng cấp A + B + C1 chiếm khoảng 1,56 tỷ tấn. Diện phân bố các mỏ sét được tập trung chủ yếu ở các vùng Đông Bắc, Bắc Trung Bộ, đồng bằng sông Hồng và Tây Bắc. Các mỏ sét được tạo thành thường đi kèm với các mỏ đá. Đây chính là một yếu tố địa chất đặc biệt góp phần cho các dự án xi măng phát triển thuận lợi (bảng 2).
Bảng 2
N 0 | Khu vực | Trữ lượng | |
Đá vôi | Đá sét | ||
1 | Quảng Ninh | 1.483,894 | 229,295 |
2 | Hải Phòng - Hải Dương | 856,138 | 216,454 |
3 | Hoà Bình - Hà Tây - Hà Nam - Binh Bình - Bắc Thanh Hoá | 3.800,269 | 828,203 |
4 | Nam Thanh Hoá - Nghệ An | 614,292 | 346,400 |
5 | Quảng Bình - Quảng Trị - Thừa Thiên Huế | 1.574,511 | 317,219 |
6 | Quảng Nam - Đà Nẵng | 562,400 | 16,374 |
7 | Tây Ninh - Bình Phước | 258,903 | 102,142 |
8 | Kiên Giang | 260,000 | 54,305 |
Cộng | 9.442,408 | 2.110,824 |
2. Giải pháp cho nguồn nguyên liệu
Với những số liệu nêu trên cho chúng ta thấy, nguồn nguyên liệu đầu vào cho xi măng mặc dù rất dồi dào nhưng tốc độ phát triển như hiện nay thì trong tương lai không xa thì nguồn nguyên liệu đầu vào cho xi măng sẽ trở nên khó khăn.
Vấn đề đặt ra cho các nhà quản lý hiện nay là cần kịp thời áp dụng mọi biện pháp để nâng cao hệ số sử dụng nguyên liệu. Tận thu tối đa tài nguyên, sử dụng hợp lý tài nguyên vào từng mục đích cụ thể theo chất lượng. Ngay hiện nay, một số nhà máy xi măng mặc dù nguồn nguyên liệu vẫn còn đủ cho nhu cầu sản xuất trong nhiều năm tới, nhưng đã quan tâm tới dự trữ nguyên liệu cho tương lai, như các nhà máy xi măng Hoàng Thạch, xi măng Hà Tiên 2 và một số các dự án xi măng mới như xi măng Sông Thao, xi măng Long Thọ, xi măng - clinke Hà Tiên đã khảo sát phần trữ lượng nằm dưới mức thoát nước tự chảy.
Khai thác nguyên liệu đá vôi, đá sét dưới mức thoát nước tự chảy là một trong những phương pháp khai thác nhằm tận dụng tối đa nguồn nguyên liệu. So với phương pháp khai thác thông thường (đá vôi, đá sét nổi) thì khi khai thác dưới mức thoát nước tự chảy có nhiều đặc điểm hơn về công nghệ, thiết bị, cũng như về đầu tư cơ bản. Các công trình xây dựng cơ bản mỏ, khai thác mỏ thường phải xử lý các vấn đề kỹ thuật phức tạp hơn, đặc biệt là vấn đề địa chất thủy văn, bơm thoát nước mỏ…
3. Kết luận
Vấn đề nguồn nguyên liệu đầu vào cho ngành công nghệ xi măng sẽ trở nên khó khăn trong một tương lai không xa. Việc đánh giá nguồn nguyên liệu cũng như sử dụng có hiệu quả và hợp lý nguồn nguyên liệu là hết sức cần thiết. Nâng cao trình độ quản lý ngành, nâng cao năng lực của các đơn vị tư vấn, quy hoạch thiết kế mỏ nguyên liệu, đơn vị khai thác và sử dụng nguyên liệu hợp lý là một trong những công tác cần được chú trọng hàng đầu.
Cơ quan quản lý nhà nước về ngành xi măng cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa với các cơ quan quản lý tài nguyên môi trường, văn hoá thông tin, quốc phòng, giao thông để có quy hoạch chi tiết các mỏ nguyên liệu nhằm sử dụng triệt để và đúng mục đích nguồn tài nguyên mà vẫn giữ được cảnh quan, môi trường và an ninh quốc gia. Giải pháp kỹ thuật nhằm tận dụng tối đa tài nguyên lòng đất là áp dụng công nghệ khai thác các mỏ nguyên liệu dưới mức thoát nước tự chảy, một công nghệ mang lại hiệu quả to lớn không chỉ về kinh tế mà còn về an toàn lao động và bảo vệ môi trường.