Thực trạng sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước ở nông thôn
Phải nói rằng sự phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đã tạo nên sự chuyển đổi mạnh mẽ cả về cơ cấu kinh tế cũng như quá trình đô thị hóa khu vực nông thôn, tạo nên những sắc thái mới, động lực mới rất đáng khích lệ… nhưng cũng đặt ra những thách thức mới trong sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước.
Không thể phủ nhận quá trình đô thị hóa nông thôn đã cải thiện đáng kể điều kiện ăn ở, giao thông và các dịch vụ công cộng, đã nâng cao đáng kể mức sống của người dân, song quá trình đó cũng làm tăng nhu cầu nước phục vụ sinh hoạt cũng như làm tăng lượng nước thải xả vào nguồn nước. Cũng phải nói rằng ở khu vực nông thôn, chưa có đủ điều kiện để xây dựng và hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng trong khi tỷ lệ hố xí hợp vệ sinh còn thấp (chỉ mới đạt khoảng 30%), nhiều gia đình có kiểu nhà vệ sinh dội nước và cho nước thải ngấm trực tiếp xuống đất… khi đó hồ ao, sông ngòi, kênh rạch trở thành nơi chứa nước thải, gây ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước mặt và nhiễm khuẩn cả nước ngầm tầng nông và đây là một trong những nguyên nhân gây nên dịch tả, lỵ, thương hàn. Theo thống kê của các cơ quan chức năng, hàng năm các bệnh dịch này giảm tới 35% tiềm năng sức lao động và tiêu tốn một khoản không nhỏ cho chi phí phòng chống dịch.
Có một thực tế là một số vùng nông thôn mới đã hình thành ngay ở những vùng rừng nguyên sinh, vùng đồi núi, vùng đầm lầy, vùng đất cát ven biển và hải đảo… đã làm mất dần rừng phòng hộ đầu nguồn gây ô nhiễm nguồn nước và gây những tác động xấu cho môi trường nước như lũ lụt, hạn hán…
Ngành chăn nuôi tập trung theo quy mô công nghiệp kể cả chăn nuôi gia súc và thuỷ hải sản cũng dẫn tới tình trạng tương tự thậm chí còn nguy hại hơn khi dư lượng thuốc kích thích tăng trưởng, bảo quản thức ăn,… được hoà tan và xả vào nguồn nước.
Việc lạm dụng phân bón (kể cả phân hữu cơ và phân hóa học) thuốc kích thích tăng trưởng, thuốc trừ sâu, diệt cỏ trong nông nghiệp; việc chế biến nông, lâm, thuỷ, hải sản tập trung cũng xả vào nguồn nước một lượng nhỏ hoá chất độc hại làm suy giảm chất lượng nguồn nước kể cả nước mặt và nước ngầm.
Việc khai thác nước dưới đất phục vụ sinh hoạt, chăn nuôi, trồng trọt một cách bừa bãi, không theo quy hoạch, thiếu quản lý chặt chẽ dẫn tới việc hạ thấp mực nước ngầm thậm chí làm suy giảm cả vể số lượng và chất lượng nguồn nước ngầm tới mức khó hồi phục đã xảy ra ở một số địa phương.
Việc khoan giếng lấy nước ngầm không đúng quy trình kỹ thuật, không chèn lấp khi sử dụng là nguyên nhân dẫn tới hiện tượng ô nhiễm xuyên tầng làm giảm chất lượng các nguồn nước ngầm rất có giá trị ở tầng sâu. Khai thác nước ngầm với quy mô lớn gây nên sự sụt lún đất làm hư hỏng các công trình xây dựng và ở một số địa phương có thể làm trầm trọng thêm mức độ ngập lụt là vấn đề phải được quan tâm đúng mức, đặc biệt là với các tỉnh ở Đồng bằng Sông Cửu Long nơi có địa hình tương đối bằng phẳng và có cao trình mặt đất thấp.
Thực tế còn cho thấy có một số địa phương do không tính toán đến khả năng của nguồn nước tự nhiên mà vẫn chuyển đổi cơ cấu cây trồng với quy mô lớn dẫn tới tình trạng thiếu nước, cây trồng chết hoặc không mang lại hiệu quả kinh tế như mong muốn là những bài học không nhỏ.
Một vấn đề rất đáng quan tâm liên quan đến việc sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước ở nông thôn nước ta hiện nay đó là nước thải của các làng nghề. Các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm, dệt lụa, thủ công mỹ nghệ, thuộc da, mạ, đúc… hàng năm cũng thải trực tiếp vào nguồn nước một lượng lớn các chất thải đủ loại từ vi khuẩn tới kim loại nặng mà không qua bất kỳ một quy trình xử lý nào.
Nhìn nhận ảnh hưởng tất yếu của quá trình CNH - HĐH khi xem xét tốc độ đô thị hóa nông thôn thấy rõ: nhiều khu đô thị mới, nhiều khu công nghiệp mới hình thành đan xen với địa bàn nông thôn. Các khu công nghiệp này xả vào nguồn nước (sông ngòi, hồ ao) một lượng chất thải rất lớn làm giảm chất lượng nguồn nước, một số nơi tình trạng ô nhiễm đã đến mức nghiêm trọng, đặc biệt là chất thải có chứa kim loại nặng, một trong những nguyên nhân gây nên bệnh ung thư.
Từ thực trạng sử dụng tài nguyên nước như trên, không thể không cảnh giác về nguy cơ cạn kiệt, suy thoái, ô nhiễm nguồn tài nguyên nước nếu như không có những biện pháp hữu hiệu để bảo vệ nguồn tài nguyên đặc biệt quý giá này. Để bảo vệ tài nguyên nước cần thực hiện một số biện pháp sau:
Tuyên truyền rộng rãi Luật Tài nguyên nước và các văn bản sau luật có liên quan đến tài nguyên nước để toàn thể cộng đồng hiểu rõ giá trị của tài nguyên nước, hiểu rằng tài nguyên nước chỉ là hữu hạn cần phải được sử dụng tiết kiệm và hiệu quả từng bước tiến tới xã hội hoá ngành nước.
Khuyến khích trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn, bảo vệ môi trường nước; Hướng dẫn, giám sát việc sử dụng phân bón, hóa chất, thuốc trừ sâu, diệt cỏ trong sản xuất nông nghiệp, trong chăn nuôi hải sản, nông lâm thổ sản… nhằm hạn chế tác nhân gây ô nhiễm nguồn nước.
Tăng cường công tác quản lý trong khai thác, sử dụng nước (kể cả nước mặt và nước ngầm) và xả nước thải vào nguồn nước; Quản lý tốt nước thải từ các làng nghề thông qua các đề án xử lý nước thải tập trung bằng mọi nguồn vốn có thể huy động, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ xử lý nước thải cho các hộ xả nước thải vào nguồn nước.
Kiên quyết xử lý các vi phạm về bảo vệ tài nguyên và môi trường nước.