Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ bảy, 05/09/2009 07:29 (GMT+7)

Thư viện Học viện Viễn Đông Bác cổ

 

Lúc đầu, thư viện được đặt tại số 140 đường Pellerin, Sài Gòn (Nay là đường Pasteur, Thành phố Hồ Chí Minh), cho tới năm 1903 được chuyển ra Hà Nội tại trụ sở của EFEO, số 3 phố Teinturiers (nay là phố Thợ Nhuộm) và số 60 đại lộ Gambetta (nay là phố Trần Hưng Đạo). Năm 1905, Chính quyền thuộc địa đã cấp trụ sở mới cho văn phòng và thư viện của EFEO tại 26 đại lộ Carreau (nay là phố Lý Thường Kiệt). Thư viện đã chuyển về địa điểm mới này vào tháng 5, tháng 6 năm 1905. Trụ sở 26 đại lộ Carreau đã nhiều lần được mở rộng thêm (ví dụ theo Nghị định ký ngày 17 - 3 - 1923 của Toàn quyền Đông Dương đã trao quyền cho Giám đốc EFEO tậu một mảnh đất và hai toà nhà tại 23, 25 đại lộ Đồng Khánh (nay là phố Hàng Bài). Và cho tới năm 1943, toà nhà thư viện 5 tầng hoàn thành (hiện nay là kho sách của thư viện Viện Thông tin Khoa học xã hội và Trung tâm Thông tin và Tư liệu khoa học công nghệ Quốc gia).

Trong một báo cáo của Giám đốc C. E. Maitre gửi cho Toàn quyền Đông Dương về các công việc của EFEO từ năm 1902 đến 1907 có nêu: Thư viện của EFEO là một thư viện chuyên ngành. Mục tiêu của nó là thu thập tất cả các sách liên quan tới Đông Dương và khu vực Viễn Đông bằng các ngôn ngữ khu vực, ngôn ngữ châu Âu. Nguồn bổ sung sách rất đa dạng: các sách về Viễn Đông được chuyển tới từ Paris, nhất là từ Viện Hàn lâm Văn khắc và Văn chương; sách do EFEO xuất bản; sách do các thành viên của EFEO đi sưu tầm và mua tại Đông Dương và tại các nước thuộc vùng Viễn Đông như các nước Đông Nam Á, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Nga… bằng tiền ngân sách do Chính quyền thuộc địa phân bổ; trao đổi các ấn phẩm của mình với các thư viện, các trường đại học và các tổ chức khoa học trên thế giới. Một nguồn quan trọng nữa là quy định việc nộp lưu chiểu của các xuất bản phẩm ở Đông Dương: Thông tư ngày 3 – 7 – 1900 của Toàn quyền Đông Dương Pau Deumer đã yêu cầu các cơ quan, các nhà xuất bản và chính quyền địa phương phải gửi tới EFEO hai bản tất cả các ấn phẩm đã xuất bản trong phạm vi quyền hạn của mình. Thậm chí, nếu sách đã bán hết thì phải gửi EFEO các chỉ số thư viện của cuốn sách đó.

Giá trị nhất của thư viện EFEO là các cuốn sách viết tay. EFEO đã thu thập được rất nhiều các văn bản viết tay bằng hầu hết các ngôn ngữ vùng Viễn Đông. Các văn bản này được viết trên giấy, trên lá cọ, thậm chí cả khắc trên các lá kim loại. Với sự kiên trì và chi phí không nhỏ, EFEO đã sao lại các tư liệu tại Nội các nhà Nguyễn từ thời Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức hoặc in khắc gỗ tại Sử quán, thu thập và thuê chép lại tại các địa phương, các gia đình những văn bản chưa xuất bản, những tư liệu về đền chùa, làng xã và về các dòng họ. Những cuốn sách này chủ yếu là sách chữ Hán, một số sách chữ Nôm. Ngoài ra là những bản rập văn khắc ở các nước Đông Dương, nhiều nhất là ở Việt Nam.

Xin đưa ra một ví dụ về bổ sung tư liệu năm 1907. Ngoài các ấn phẩm xuất bản trong năm, các thành viên của EFEO còn sưu tầm các tài liệu quý hiếm, công việc quan trọng nhất của thư viện EFEO như: một số văn bản chữ Hán cực kỳ hiếm, những sách của Tây Tạng và một tác phẩm về lịch sử Mông Cổ do M. Huber mang từ Trung Quốc về; nhiều tài liệu viết tay về lịch sử của Miến Điện; một bộ sách viét tay bách khoa thư của Việt Nam, lúc đó coi như đã mất; một loạt các tư liệu cổ của Việt Nam và Chăm về các đời vua cuối cùng của nước Chăm pa; một bản viết tay tuyệt đẹp trên kim loại thếp son của Miến Điện, quà biếu của Petithuguenin; và đặc biệt là các bộ Niên giám của vua Thiệu Trị và vua Tự Đức do Viện Cơ Mật của triều đình nhà Nguyễn in lại theo yêu cầu của EFEO. Về các văn khắc, đã nhận những bản rập các bi ký của người Chăm tại động Phong Nha, mà cho đến lúc bấy giờ vẫn chưa đọc được (của Paris); các bản rập văn khắc trên đá được phát hiện ở Bản Cun, Nghệ An, được coi là bản văn khắc cổ nhất của Việt Nam (của Malot) và một bộ bản rập văn khắc của Miến Điện và Pégouanes (của De Beylié) (1).

Một dạng tư liệu độc đáo nữa của thư viện EFEO là phim ảnh. Những bức ảnh này được chụp từ khi còn dùng phim kính và sau này là phim âm bản, phần lớn “do các thành viên của EFEO chụp. Họ là những nhà sử học, kiến trúc sư, khảo cổ học, quản thủ bảo tàng, thư tịch học”, do đó “các chủ đề thường gắn với nội dung nghiên cứu mang tính chất chuyên môn” (2). Một số lượng lớn ảnh nữa là bưu ảnh (carte postale). Dạng tư liệu này đã trở thành di sản quý giá cho các nhà nghiên cứu lịch sử, dân tộc, văn hoá, tôn giáo và kiến trúc sau này.

Một loạt hình tư liệu đặc biệt là bản đổ cổ các địa phương của Việt Nam và một số nước Đông Dương do EFEO sưu tầm. Hiện nay Viện Thông tin Khoa học xã hội vẫn lưu giữ kho bản đồ cổ này, trong đó có bản đồ Hà Nội khổ lớn được vẽ vào năm 1873.

Thư viện, công cụ chủ yếu của EFEO, được chia thành 7 bộ phận (section):

Phông châu Âu: gồm các tác phẩm in bằng các ngôn ngữ châu Âu, các văn bản bằng ngôn ngữ phương Đông được xuất bản theo phương thức của phương Tây, các tác phẩm bằng chữ Quốc ngữ, gồm khoảng 15.000 tác phẩm (40.000 tập) liên quan tới châu Á, trong đó có 350 cuốn trước thế kỷ XIX được để trong kho lưu trữ (la Réserve). Có khoảng 100.000 phiếu tra cứu đặt trong hai tủ phiếu được sắp xếp theo tác giả và theo một loại.

Phông Trung Quốc: được thu thập từ các chuyến đi công tác của các thành viên thuộc EFEO: Paul Pelliot, Edouard Huber, Henri Maspero, Léonerd Auttousseau, P. Demíeville. Phông này có gần 4.000 tác phẩm viết tay hoặc in gồm 27.000 tập. Có khoảng 25.000 phiếu tra cứu cho phông này. Sổ kiểm kê được in gồm 12 tập, trong đó đã in được 5 tập (từ A - LU).

Phông chữ Hán Nôm(Fonds Annamite): gồm các văn bản bằng chữ vuông được sao chép từ bản gốc hoặc do Sử quán ở Huế in bằng bản khắc gỗ. Phông này gồm bản viết tay bằng chữ Hán (3.124 tác phẩm trong 4.512 tập) và bằng chữ Nôm (630 tác phẩm trong 647 tập) và các tác phẩm được in bằng chữ Hán ở Việt Nam (695 tác phẩm trong 1065 tập): Tổng cộng là 4.449 tác phẩm trong 6.251 tập. Cần phải kể thêm 2.575 hương ước của các làng và các bản sắc phong. Có 9.000 phiếu tra cứu.

Phông Nhật Bản: được thu thập từ các chuyến đi công tác tại Nhật Bản của: Cl/ Maitre, Ne. Peri và E. Gaspardone. Gồm 2.096 tác phẩm trong 11.307 tập và 5.000 phiếu tra cứu.

Bản đồ và bình độ: Bộ phận này có tất cả các bản đồ của Sở Địa lý Đông Dương, bản đồ địa phương và các tỉnh, bản đồ các dân tộc ở Bắc kỳ, Lào, Campuchia và các bình đồ mặt bằng các thành phố cổ ở Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ.

Các bản viết tay: Phông này, được để toàn bộ trong kho lưu giữ, bao gồm các bản viết tay của các ngôn ngữ (trừ Hán Nôm).

Phông chữ Campuchia: trên lá cọ (3): 366; trên giấy: 126.Phông chữ Lào: trên lá cọ: 670; trên giấy: 30.Phông chữ Thái: trên lá cọ 133; trên giấy: 8.Phông chữ Thái(Việt Nam): 351.Phông chữ Chàm: 65.Phông Miến Điện: trên lá cọ: 16; trên giấy: 13.Phông chữ Môn: trên lá cọ: 86; trên giấy: 25.Phông Lolo: 13.Phông Batak:2.Phông chữ Tây Tạng: 2.Phông chữ Na - shi hoặc Mosso: 46.Phông khác: 6.Phông chữ châu Âu: 240 tên.

Phông chữ châu Âubao gồm 430 bản viết tay (các tư liệu về Đông Dương được lấy từ Kho Lưu trữ ở La Haye và nhiều từ điển các phương ngữ ở Đông Dương). Phông này cũng vừa được công nhận thêm 9.200 bản điều tra về thờ cúng các thần hộ mệnh ở Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ, 6.000 bản sao về phong tục làng xã Việt Nam, 6.000 bản trả lời về thần tích các làng, 7.000 bản trả lời về các dòng họ ở Nghệ An. Thư viện đã nhận được bốn hình loại này từ các cuộc điều tra do EFEO tiến hành để nghiên cứu về dân cư, về tổ chức xã hội và về tôn giáo của cả ba miền.

Các bản rập bia: Bộ phận này có 20.338 bản rập bia bằng chữ Hán tại các tỉnh thuộc Bắc kỳ và Trung kỳ. 1.555 bản do đoàn công tác của Chavannes và đoàn công tác của Pelliot tại Trung Quốc và 2.096 bản rập bia của Campuchia và Lào.

Toà nhà thư viện mới được bố trí, sắp xếp như sau: Tầng trệt gồm phòng khử trùng và phòng đóng sách. Báo và các bản văn khắc cũng được để tạm thời tại đây. Tầng một dành cho phông các công trình do EFEO xuất bản và các phông châu Âu (quartos và folios). Tầng hai gồm các tác phẩm của phông châu Âu (octavos) cũng như bản đồ và bình đồ. Hai tầng trên cùng dành cho các phông Hán Nôm, Trung Quốc và Nhật Bản. Các bản viết tay và lưu trữ của mỗi phông được lưu giữ trong các tủ chuyên dụng bố trí cho từng tầng và tủ sấy dùng để khử trùng theo quy định các tài liệu của thư viện.

Một dãy phòng nối giữa toà nhà cũ và mới dùng làm phòng cho các thủ thư và toà nhà cũ dùng làm phòng đọc, phòng làm việc và phòng nhân sự của EFEO. Ngoài ra thư viện còn có toà nhà của Giám đốc, các phòng làm việc cho các thành viên EFEO và một toà nhà riêng dùng cho các công việc về phim, ảnh và microfilm.

Theo giáo sư Neol Pari, thư viện của EFEO có thể được coi là “thư viện nghiên cứu chuyên ngành hàng đầu về Viễn Đông”, giá trị và số lượng sách thuộc các phông Trung Quốc và Nhật Bản là “rất quan trọng và có thể so sánh với các thư viện lớn của Trung Quốc và Nhật Bản”, trong đó có 3 quyểnVĩnh Lạc đại điểnvà nhiều cuốn sách chữ Hán rất giá trị thuộc các triều đại phong kiến Việt Nam… (4).

Theo quyết định của Quyền Giám đốc EFEO ngày 28 - 10 - 1907, thư viện của EFEO là thư viện công cộng. Phòng đọc của thư viện mở cửa từ 8 giờ 30 đến 11 giờ và chiều từ 2 giờ 30 đến 5 giờ vào tất cả các ngày, trừ Chủ nhật và ngày lễ. Các tài liệu được đọc tại chỗ. Muốn mượn tài liệu về, người mượn phải là người ở tại Hà Nội và phải được sự đồng ý của Giám đốc. Các tài liệu như từ điển, sách ngữ pháp, bản đồ, tạp chí chưa được đóng thành bộ và các tài fliệu quý hiếm chỉ được đọc tại chỗ. Các tài liệu mượn không được mang ra khỏi Hà Nội và thời hạn mượn tối đa là 15 ngày. Qua thời hạn trên, thủ thư sẽ gửi thư đòi tài liệu đến người mượn. Những trường hợp làm mất sách, hỏng sách hoặc mượn quá thời hạn đều phải bồi thường và mất quyền được mượn sách.

Nhà văn Nguyên Ngọc Xin nói thêm, để phục vụ công tác nghiên cứu khoa học, EFEO đã xây dựng hệ thống phiên âm chữ Trung Quốc được dùng trong thư viện và xuất bản. Hệ thống này gần giống như Hệ thống phiên âm Wade - Giles của Anh và Hanyu Pinyin của Trung Quốc hiện nay.

Trong diễn văn của ông Louis Malleret (Giám đốc EFEO từ 7 - 1950 đến 7 - 1956), vào dịp kỷ niệm 50 năm thành lập EFEO, có thống kê số lượng tư liệu do EFEO sư tầm tại thư viện EFEO như sau: 85.000 quyển sách về vùng Viễn Đông; 25.000 bản rập bia Chăm, Khơme, Lào, Việt Nam và Trung Quốc; 5.700 bản viết tay, trong đó tài liệu Việt Nam là 3.500 và 516 tài liệu nguyên gốc phương Tây; 132 bản sắc phong thần; khoảng 18.000 bản ghi chép, bản sao hoặc các bản điều tra về các tục lệ địa phương; và khoảng 25.000 phim, ảnh tư liệu lịch sử và văn hoá Đông Dương (5).

Tuy nhiên, vào những năm 1949 và 1950, khi chế độ thực dân gần như sụp đổ ở Đông Dương, Pháp đã ký với các chính quyền Việt Nam (của ông Bảo Đại), Campuchia, Lào một thoả thuận 4 bên về thay đổi tổ chức và chức năng của EFEO: EFEO không còn chỉ là của Pháp, các tài sản của EFEO thuộc của cả 4 quốc gia. Thoả thuận đã tạo cơ sở pháp lý cho EFEO phân chia tài sản trong giai đoạn này. Năm 1954, trụ sở chính của EFEO chuyển vào Sài Gòn, các ấn phẩm định kỳ, các công trình chung được chia cho Hà Nội, Sài Gòn, Viên Chăn và Phnôm Pênh; các bộ sưu tập Hán Nôm cũng như Trung Quốc và Nhật bản do các thành viên EFEO sưu tầm được để lại ở thư viện EFEO tại Hà Nội; các bộ sưu tập châu Âu được chuyển vào Sài Gòn và Phnôm Pênh rồi sau đó qua Pháp (có 318 thùng sách gửi đi Phnôm Pênh sau đó đã sớm được chuyển đến Pondichéry - một Trung tâm của EFEO tại Ấn Độ - và từ đó lại chuyển đến Pháp, trong đó bao gồm hàng chục nghìn sách và bản viết tay các ngôn ngữ châu Âu, những sưu tập của Tây Tạng, lưu trữ hành chính, văn khắc, tư liệu viết tay các ngôn ngữ vùng Đông Nam Á… hiện nay lưu giữ tại thư viện của EFEO tại Paris). Các bộ sưu tập về Campuchia và Lào được chuyển về Phnôm Pênh, Viên Chăn (từ thư viện của EFEO tại Hà Nội, gần 500 thùng sách được chuyển đi Phnôm Pênh, Viên Chăn và trụ sở mới của EFEO tại Sài Gòn). Ngoài ra tại Hà Nội, EFEO còn cho tiến hành chụp microfilm các sưu tập của EFEO, nhất là các bản viết tay của Việt Nam dùng để cho các trung tâm khác và cho trụ sở chính tại Paris.

Sau khi Hiệp định Geneve được ký kết, tháng 10 – 1954, Chính phủ kháng chiến của Việt Nam về tiếp quản Hà Nội, EFEO vẫn còn một trung tâm hoạt động tại Hà Nội. Lúc này, ngoài những sách do Việt Nam và EFEO xuất bản, thư viện đã nhập một số sách bằng tiếng Pháp của các nước xã hội chủ nghĩa lúc đó như của Liên Xô, Trung Quốc, Bungari, Đức, Ba Lan, Tiệp Khắc,… và được đăng ký theo các ký hiệu truyền thống của thư viện EFEO như 40, 80, Plo… và cho đến cuối năm 1957, những thành viên người Pháp của EFEO tại Hà Nội do ông Maurice Durand và Léon Vandermeersch phụ trách đã bàn giao lại toàn bộ các hiện vật ở Bảo tàng Louis Finot, sách, tài liệu và các dạng tư liệu khác tại thư viện cho chính quyền Việt Nam (6). Khi Uỷ ban Khoa học Nhà nước được thành lập năm 1958, Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng đã ban hành Quyết định số 040-TTg ngày 6 - 2 - 1960 về việc thành lập Thư viện Khoa học Trung ương thuộc Uỷ ban Khoa học Nhà nước, trên cơ sở của thư viện Học viện Viễn Đông Bác cổ.

Theo cuốnUn siècle pour l’Asie: L’École francaise d’Extrême - Orient,1898 - 2000 của Catherine Clémentin - Ojha và Pierre - Yves Manguin, xuất bản năm 2001, số lượng tư liệu bàn giao cho chính phủ Việt Nam gồm: 36.000 tác phẩm bằng ngôn ngữ châu Âu; hơn 1.000 tác phẩm bằng tiếng Việt; 2.000 bản đồ và hơn 70.000 ảnh; các văn bản viết tay gồm 33.000 bằng chữ Hán, 4.000 chữ Nôm và 10.000 chữ Nhật; 25.000 bản văn khắc; gần 9.000 bản hương ước bằng chữ Việt và chữ Hán; các xuất bản thường kỳ được để lại Hà Nội, đặc biệt là các báo xuất bản từ đầu thế kỷ trên toàn Đông Dương.

Số sách trên hiện nay hầu hết còn được lưu giữ tại Thư viện Khoa học xã hội, trừ số sách Hán Nôm đã bàn giao cho Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Theo Mai Ngọc Hồng trong bàiTổ chức bảo quản sưu tầm thư tịch và tư liệu Hán Nôm của Viện Nghiên cứu Hán Nômđăng trên tạp chíNghiên cứu Hán Nômsố 1 - 1984, kho thư tịch và tư liệu Hán Nôm được chuyển giao từ Thư viện Viện Thông tin khoa học xã hội cho Viện Nghiên cứu Hán Nôm vào tháng 2 - 1982 gồm 11.167 cuốn sách, trong đó ký hiệu A có: 3.231 cuốn, AB: 652 cuốn, AC: 700 cuốn, ký hiệu AD (thần sắc): 454 cuốn, AE (thần tích): 556 cuốn, AF (tục lệ): 748 cuốn, AG: địa bạ): 500 cuốn, AH (xã chí): 200 cuốn, AJ (cổ chí): 252 cuốn, và 20.979 thác bản văn bia.

Sau khi bàn giao trụ sở của EFEO tại Hà Nội cho chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, EFEO đã chuyển trụ sở tới Sài Gòn, sau đó về Pháp. Hiện nay, trụ sở chính của EFEO được đặt trong Nhà Á châu (Maison de l’Asie), số 22 đại lộ Président Wilson, quận 16 thành phố Paris. Tại trụ sở chính, EFEO cũng có một thư viện và một phòng trữ ảnh. Thư viện tại Paris hiện có khoảng 83.000 tên sách, hơn 1000 tên tạp chí (trong đó có 700 tạp chí còn đang tiếp tục xuất bản) cùng với hàng nghìn bản văn khắc. Phòng lưu trữ ảnh cũng có khoảng 50.000 ảnh về các lĩnh vực khảo cổ học, kiến trúc, nghệ thuật tượng, tranh ảnh, văn khắc, dân tộc học, bảo tàng… của các nước Campuchia (30.000 ảnh), Việt Nam (khoảng 7.000 ảnh), Trung Quốc (khoảng 3.000 ảnh), Lào (khoảng 3.000 ảnh), Thái Lan (khoảng 2.000 ảnh), Ấn Độ… Nhiều ảnh đã được số hoá (7).

Ngoài trụ sở chính ở Paris, EFEO còn có 17 trung tâm tại 12 quốc gia như Phnôm Pênh, Siêm Riệp (Campuchia), Seoul (Hàn Quốc), Pondichéry, Pune (Ấn Độ), Jakarta (Indonesia), Kyoto, Tokyo (Nhật Bản), Viên Chăn (Lào), Kuala Lumpur (Malaisia), Rangoon (Mianma), Bắc Kinh, Hồng Kông (Trung Quốc), Đài Bắc (Đài Loan), Băng Cốc, Chiềng Mai (Thái Lan) , và Hà Nội (Việt Nam).

Ngày 10 - 2 - 1993, một thoả thuận về việc thành lập Văn phòng đại diện của trường Viễn Đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội đã được ký kết giữa Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên, thay mặt Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Quốc vụ khanh Pháp ngữ và quan hệ văn hoá Catherine Tasca, thay mặt Chính phủ nước Cộng hoà Pháp. EFEO trở lại Hà Nội, có trụ sở tại 5A ngõ Hạ Hồi và thực hiện các hoạt động của mình theo khuôn khổ các điều khoản đã được thoả thuận. Tại trụ sở này, EFEO cũng có một thư viện nhỏ có khoảng 6.000 cuốn sách tiếng Việt, Pháp, Anh, chủ yếu về khoa học nhân văn của Việt Nam và các quốc gia trong khu vực (Campuchia, Lào, Thái Lan).

Chú thích:

1. Bulletin de l’École francaise d’Extrême - Orient. Tom VII - 1907, tr 465.

2. Phillipe Le Failler.Phông ảnh lưu trữ tại Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp.Cấu thành và bảo quản.Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội, số 271, 7 - 2005, tr 47 - 49.

3. Nguyên văn tiếng Pháp: “les olles”, có nghĩa là vật mang tài liệu không phải là giấy tờ.

4. N. Peri.L’École francaise d’Extrême – Orient et sa bibliothèque. H.: EFEO, (?)Theo chúng tôi được biết các quyểnVĩnh Lạc đại điểnđã được Thư viện Khoa học Trung ương giao lại cho Trung Quốc.

5. Louis Malleret.Le cinquantenaire de l’EFEO.Hanoi: EFEO, 1953.

6. EFEO còn làm việc ở Hà Nội tới năm 1959 tại 60 Trần Hưng Đạo, Hà Nội, sau đó chuyển vào Sài Gòn.

7. Theo Website của EFEO: http://www.efeo.fr/


Nhà văn Nguyên Ngọc

Xem Thêm

An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Đại hội thi đua yêu nước Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ V
Đây là sự kiện chính trị quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc trong công tác của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), là ngày hội tôn vinh điển hình tiên tiến các tập thể, cá nhân nhà khoa học trong hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu, đóng góp cho công tác hội và sự nghiệp KH&CN nước nhà.
THI ĐUA LÀ YÊU NƯỚC!
Năm 2025 không chỉ đánh dấu nhiều ngày lễ trọng đại của đất nước, mà còn là mốc son đưa Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thảo luận, đề xuất các giải pháp phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững
Ngày 6/6, Liên hiệp Hội Việt Nam phối hợp với Tổng Hội Xây dựng Việt Nam tổ chức Hội thảo Phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững. Các chuyên gia, nhà khoa học tại hội thảo đã làm rõ vai trò và nhu cầu cấp thiết của phát triển hạ tầng xanh, đồng thời đề xuất nhiều giải pháp về chính sách và công nghệ.
An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Đảng ủy LHHVN tổ chức Lễ trao huy hiệu Đảng và Hội nghị chuyên đề "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một"
Ngày 3/6, tại Hà Nội, Đảng ủy Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức Lễ trao tặng huy hiệu Đảng đợt 19/5/2025 và Hội nghị chuyên đề Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một".