Thư viện Học viện Viễn Đông Bác cổ
Lúc đầu, thư viện được đặt tại số 140 đường Pellerin, Sài Gòn (Nay là đường Pasteur, Thành phố Hồ Chí Minh), cho tới năm 1903 được chuyển ra Hà Nội tại trụ sở của EFEO, số 3 phố Teinturiers (nay là phố Thợ Nhuộm) và số 60 đại lộ Gambetta (nay là phố Trần Hưng Đạo). Năm 1905, Chính quyền thuộc địa đã cấp trụ sở mới cho văn phòng và thư viện của EFEO tại 26 đại lộ Carreau (nay là phố Lý Thường Kiệt). Thư viện đã chuyển về địa điểm mới này vào tháng 5, tháng 6 năm 1905. Trụ sở 26 đại lộ Carreau đã nhiều lần được mở rộng thêm (ví dụ theo Nghị định ký ngày 17 - 3 - 1923 của Toàn quyền Đông Dương đã trao quyền cho Giám đốc EFEO tậu một mảnh đất và hai toà nhà tại 23, 25 đại lộ Đồng Khánh (nay là phố Hàng Bài). Và cho tới năm 1943, toà nhà thư viện 5 tầng hoàn thành (hiện nay là kho sách của thư viện Viện Thông tin Khoa học xã hội và Trung tâm Thông tin và Tư liệu khoa học công nghệ Quốc gia).
Trong một báo cáo của Giám đốc C. E. Maitre gửi cho Toàn quyền Đông Dương về các công việc của EFEO từ năm 1902 đến 1907 có nêu: Thư viện của EFEO là một thư viện chuyên ngành. Mục tiêu của nó là thu thập tất cả các sách liên quan tới Đông Dương và khu vực Viễn Đông bằng các ngôn ngữ khu vực, ngôn ngữ châu Âu. Nguồn bổ sung sách rất đa dạng: các sách về Viễn Đông được chuyển tới từ Paris, nhất là từ Viện Hàn lâm Văn khắc và Văn chương; sách do EFEO xuất bản; sách do các thành viên của EFEO đi sưu tầm và mua tại Đông Dương và tại các nước thuộc vùng Viễn Đông như các nước Đông Nam Á, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Nga… bằng tiền ngân sách do Chính quyền thuộc địa phân bổ; trao đổi các ấn phẩm của mình với các thư viện, các trường đại học và các tổ chức khoa học trên thế giới. Một nguồn quan trọng nữa là quy định việc nộp lưu chiểu của các xuất bản phẩm ở Đông Dương: Thông tư ngày 3 – 7 – 1900 của Toàn quyền Đông Dương Pau Deumer đã yêu cầu các cơ quan, các nhà xuất bản và chính quyền địa phương phải gửi tới EFEO hai bản tất cả các ấn phẩm đã xuất bản trong phạm vi quyền hạn của mình. Thậm chí, nếu sách đã bán hết thì phải gửi EFEO các chỉ số thư viện của cuốn sách đó.
Giá trị nhất của thư viện EFEO là các cuốn sách viết tay. EFEO đã thu thập được rất nhiều các văn bản viết tay bằng hầu hết các ngôn ngữ vùng Viễn Đông. Các văn bản này được viết trên giấy, trên lá cọ, thậm chí cả khắc trên các lá kim loại. Với sự kiên trì và chi phí không nhỏ, EFEO đã sao lại các tư liệu tại Nội các nhà Nguyễn từ thời Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức hoặc in khắc gỗ tại Sử quán, thu thập và thuê chép lại tại các địa phương, các gia đình những văn bản chưa xuất bản, những tư liệu về đền chùa, làng xã và về các dòng họ. Những cuốn sách này chủ yếu là sách chữ Hán, một số sách chữ Nôm. Ngoài ra là những bản rập văn khắc ở các nước Đông Dương, nhiều nhất là ở Việt Nam.
Xin đưa ra một ví dụ về bổ sung tư liệu năm 1907. Ngoài các ấn phẩm xuất bản trong năm, các thành viên của EFEO còn sưu tầm các tài liệu quý hiếm, công việc quan trọng nhất của thư viện EFEO như: một số văn bản chữ Hán cực kỳ hiếm, những sách của Tây Tạng và một tác phẩm về lịch sử Mông Cổ do M. Huber mang từ Trung Quốc về; nhiều tài liệu viết tay về lịch sử của Miến Điện; một bộ sách viét tay bách khoa thư của Việt Nam, lúc đó coi như đã mất; một loạt các tư liệu cổ của Việt Nam và Chăm về các đời vua cuối cùng của nước Chăm pa; một bản viết tay tuyệt đẹp trên kim loại thếp son của Miến Điện, quà biếu của Petithuguenin; và đặc biệt là các bộ Niên giám của vua Thiệu Trị và vua Tự Đức do Viện Cơ Mật của triều đình nhà Nguyễn in lại theo yêu cầu của EFEO. Về các văn khắc, đã nhận những bản rập các bi ký của người Chăm tại động Phong Nha, mà cho đến lúc bấy giờ vẫn chưa đọc được (của Paris); các bản rập văn khắc trên đá được phát hiện ở Bản Cun, Nghệ An, được coi là bản văn khắc cổ nhất của Việt Nam (của Malot) và một bộ bản rập văn khắc của Miến Điện và Pégouanes (của De Beylié) (1).
Một dạng tư liệu độc đáo nữa của thư viện EFEO là phim ảnh. Những bức ảnh này được chụp từ khi còn dùng phim kính và sau này là phim âm bản, phần lớn “do các thành viên của EFEO chụp. Họ là những nhà sử học, kiến trúc sư, khảo cổ học, quản thủ bảo tàng, thư tịch học”, do đó “các chủ đề thường gắn với nội dung nghiên cứu mang tính chất chuyên môn” (2). Một số lượng lớn ảnh nữa là bưu ảnh (carte postale). Dạng tư liệu này đã trở thành di sản quý giá cho các nhà nghiên cứu lịch sử, dân tộc, văn hoá, tôn giáo và kiến trúc sau này.
Một loạt hình tư liệu đặc biệt là bản đổ cổ các địa phương của Việt Nam và một số nước Đông Dương do EFEO sưu tầm. Hiện nay Viện Thông tin Khoa học xã hội vẫn lưu giữ kho bản đồ cổ này, trong đó có bản đồ Hà Nội khổ lớn được vẽ vào năm 1873.
Thư viện, công cụ chủ yếu của EFEO, được chia thành 7 bộ phận (section):
Phông châu Âu: gồm các tác phẩm in bằng các ngôn ngữ châu Âu, các văn bản bằng ngôn ngữ phương Đông được xuất bản theo phương thức của phương Tây, các tác phẩm bằng chữ Quốc ngữ, gồm khoảng 15.000 tác phẩm (40.000 tập) liên quan tới châu Á, trong đó có 350 cuốn trước thế kỷ XIX được để trong kho lưu trữ (la Réserve). Có khoảng 100.000 phiếu tra cứu đặt trong hai tủ phiếu được sắp xếp theo tác giả và theo một loại.
Phông Trung Quốc: được thu thập từ các chuyến đi công tác của các thành viên thuộc EFEO: Paul Pelliot, Edouard Huber, Henri Maspero, Léonerd Auttousseau, P. Demíeville. Phông này có gần 4.000 tác phẩm viết tay hoặc in gồm 27.000 tập. Có khoảng 25.000 phiếu tra cứu cho phông này. Sổ kiểm kê được in gồm 12 tập, trong đó đã in được 5 tập (từ A - LU).
Phông chữ Hán Nôm(Fonds Annamite): gồm các văn bản bằng chữ vuông được sao chép từ bản gốc hoặc do Sử quán ở Huế in bằng bản khắc gỗ. Phông này gồm bản viết tay bằng chữ Hán (3.124 tác phẩm trong 4.512 tập) và bằng chữ Nôm (630 tác phẩm trong 647 tập) và các tác phẩm được in bằng chữ Hán ở Việt Nam (695 tác phẩm trong 1065 tập): Tổng cộng là 4.449 tác phẩm trong 6.251 tập. Cần phải kể thêm 2.575 hương ước của các làng và các bản sắc phong. Có 9.000 phiếu tra cứu.
Phông Nhật Bản: được thu thập từ các chuyến đi công tác tại Nhật Bản của: Cl/ Maitre, Ne. Peri và E. Gaspardone. Gồm 2.096 tác phẩm trong 11.307 tập và 5.000 phiếu tra cứu.
Bản đồ và bình độ: Bộ phận này có tất cả các bản đồ của Sở Địa lý Đông Dương, bản đồ địa phương và các tỉnh, bản đồ các dân tộc ở Bắc kỳ, Lào, Campuchia và các bình đồ mặt bằng các thành phố cổ ở Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ.
Các bản viết tay: Phông này, được để toàn bộ trong kho lưu giữ, bao gồm các bản viết tay của các ngôn ngữ (trừ Hán Nôm).
Phông chữ Campuchia: trên lá cọ (3): 366; trên giấy: 126.Phông chữ Lào: trên lá cọ: 670; trên giấy: 30.Phông chữ Thái: trên lá cọ 133; trên giấy: 8.Phông chữ Thái(Việt Nam): 351.Phông chữ Chàm: 65.Phông Miến Điện: trên lá cọ: 16; trên giấy: 13.Phông chữ Môn: trên lá cọ: 86; trên giấy: 25.Phông Lolo: 13.Phông Batak:2.Phông chữ Tây Tạng: 2.Phông chữ Na - shi hoặc Mosso: 46.Phông khác: 6.Phông chữ châu Âu: 240 tên.
Phông chữ châu Âubao gồm 430 bản viết tay (các tư liệu về Đông Dương được lấy từ Kho Lưu trữ ở La Haye và nhiều từ điển các phương ngữ ở Đông Dương). Phông này cũng vừa được công nhận thêm 9.200 bản điều tra về thờ cúng các thần hộ mệnh ở Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ, 6.000 bản sao về phong tục làng xã Việt Nam, 6.000 bản trả lời về thần tích các làng, 7.000 bản trả lời về các dòng họ ở Nghệ An. Thư viện đã nhận được bốn hình loại này từ các cuộc điều tra do EFEO tiến hành để nghiên cứu về dân cư, về tổ chức xã hội và về tôn giáo của cả ba miền.
Các bản rập bia: Bộ phận này có 20.338 bản rập bia bằng chữ Hán tại các tỉnh thuộc Bắc kỳ và Trung kỳ. 1.555 bản do đoàn công tác của Chavannes và đoàn công tác của Pelliot tại Trung Quốc và 2.096 bản rập bia của Campuchia và Lào.
Toà nhà thư viện mới được bố trí, sắp xếp như sau: Tầng trệt gồm phòng khử trùng và phòng đóng sách. Báo và các bản văn khắc cũng được để tạm thời tại đây. Tầng một dành cho phông các công trình do EFEO xuất bản và các phông châu Âu (quartos và folios). Tầng hai gồm các tác phẩm của phông châu Âu (octavos) cũng như bản đồ và bình đồ. Hai tầng trên cùng dành cho các phông Hán Nôm, Trung Quốc và Nhật Bản. Các bản viết tay và lưu trữ của mỗi phông được lưu giữ trong các tủ chuyên dụng bố trí cho từng tầng và tủ sấy dùng để khử trùng theo quy định các tài liệu của thư viện.
Một dãy phòng nối giữa toà nhà cũ và mới dùng làm phòng cho các thủ thư và toà nhà cũ dùng làm phòng đọc, phòng làm việc và phòng nhân sự của EFEO. Ngoài ra thư viện còn có toà nhà của Giám đốc, các phòng làm việc cho các thành viên EFEO và một toà nhà riêng dùng cho các công việc về phim, ảnh và microfilm.
Theo giáo sư Neol Pari, thư viện của EFEO có thể được coi là “thư viện nghiên cứu chuyên ngành hàng đầu về Viễn Đông”, giá trị và số lượng sách thuộc các phông Trung Quốc và Nhật Bản là “rất quan trọng và có thể so sánh với các thư viện lớn của Trung Quốc và Nhật Bản”, trong đó có 3 quyểnVĩnh Lạc đại điểnvà nhiều cuốn sách chữ Hán rất giá trị thuộc các triều đại phong kiến Việt Nam… (4).
Theo quyết định của Quyền Giám đốc EFEO ngày 28 - 10 - 1907, thư viện của EFEO là thư viện công cộng. Phòng đọc của thư viện mở cửa từ 8 giờ 30 đến 11 giờ và chiều từ 2 giờ 30 đến 5 giờ vào tất cả các ngày, trừ Chủ nhật và ngày lễ. Các tài liệu được đọc tại chỗ. Muốn mượn tài liệu về, người mượn phải là người ở tại Hà Nội và phải được sự đồng ý của Giám đốc. Các tài liệu như từ điển, sách ngữ pháp, bản đồ, tạp chí chưa được đóng thành bộ và các tài fliệu quý hiếm chỉ được đọc tại chỗ. Các tài liệu mượn không được mang ra khỏi Hà Nội và thời hạn mượn tối đa là 15 ngày. Qua thời hạn trên, thủ thư sẽ gửi thư đòi tài liệu đến người mượn. Những trường hợp làm mất sách, hỏng sách hoặc mượn quá thời hạn đều phải bồi thường và mất quyền được mượn sách.