Thơ lục bát của Nguyễn Du và của Nguyễn Duy có sai vần luật không?
Tôi xin trích nguyên văn một đoạn của tác giả cuốn sách:
“… Người ta khen Nguyễn Du thì khen viết hay nhưng khen về thi pháp lục bát của Nguyễn Du thì chết chắc! Toàn bộ Truyện Kiều, hơn một nửa sai thi pháp (vì gieo trật luật và cưỡng vận). Trần Đăng Khoa trong “Chân dung và đối thoại” trên web site (annonnymous. Conline) cho rằng “Sau kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, những tưởng lục bát đã khép lại, không ai còn dám bén mảng đến chân cái toà lâu đài châu ngọc mà nội thất toàn gấm thêu ấy nữa. Nhưng đâu có phải. Nó còn mở bao nhiêu cánh cửa, hướng ra cõi vô biên. Lục bát còn thử thách bút lực của các thi sĩ. Nói một cách thông thái như nhà văn Nguyễn Tuân: Anh là nhà thơ Việt Nam ư? Vậy anh hãy chiềng cho tôi mấy câu lục bát của anh, tôi sẽ nói ngay anh là hạng thi sĩ thế nào?”.Hãy xem Nguyễn Du với “kiệt tác Truyện Kiều” của mình gieo vận trong đoạn lấy đại này nha (chưa nói đến luật):
Nghe chàng nói đã hết điều
Hai thân thì cũng quyết theomột bài
Hết lời không nhẽ chối lời
Cuối đầu nàng những ngắn dàithở than
Nhà vừa mở tiệc đoàn viên
Hoa soi ngọn đuốc, hồng chenbức là.
Người ta nói “ ép dầu, ép mỡ, ai nỡ ép người”. Văn là người. Thơ là bộ phận của Văn nên nó cũng có tư cách của một con người. Làm sao mà thoải mái cho những cặp từ sau đây mà đồng âm: điều – theo/ bài - lời/ lời – dài/ than – viên/ viên – chen? Hoạ chăng nói chại theo tiếng Quảng? vời - ngời/ nang – nhoàng, điều - thiều/ bài – lài/ lời - dời/ viên – chiên… còn gì là thơ! Không biết sư ông Nguyễn Tuân cho Nguyễn Du là loại thi sĩ nào đây? Tiếp đến Phạm Quốc Ca… ca “ Nhà thơ tài hoa bậc nhất ở thể lục bát trong thời đương đại là Nguyễn Duy” ( Mấy nhận xét về thể thơ trữ tình Việt Nam sau 1975 – 2000, Văn học Việt Nam sau 1975, Nxb. GD 2006) nghe mà… thất kinh! Nói hay không bằng một thấy! Thử đọc lại bài “ Tre Việt Nam” được dùng trong giảng dạy, một bài thơ ý mới và tu từ nhân hoá nhưng thi pháp 6 – 8 thì cưỡng vận sai gần hết bài. Chưa nói tới luật, chỉ nói tới cách gieo vần, Nguyễn Duy nhà ta đã gieo vần như mẹ Cám trộn thóc với đậu mà bắt Tấm nhặt vậy: Này nha (Trích nguyên văn trong trang thơ Nguyễn Duy, annonymous.onlin.fr, trừ màu mè là của người viết:
Mỡ màu ít chất dồn lâu hoá nhiều
Rễ siêng không ngại đất nghèo
Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêucần cù
Yêu nhiều nắng nỏ trời xanh
Tre kia không ngại khuất mìnhbóng râm
Bão bùng thân bọc lấy thân
Tayvin tay níu tre gần nhau thêm
Thương nhau tre chẳng ở riêng
Luỹ thành từ đó mà nên hỡi người
Vẫn nguyên cái gốc truyền đờicho con
Loài tre đâu chịu mọc cong
Có manh áo cộc tre nhườngcho măng
Măng non là búp măng non
Đã mang dáng thẳng, thân tròn của tre
Năm qua đi, tháng qua đi
Nhìn màu sắc tô đậm (cưỡng vận) của người viết bài này, nào ai có thể cho đây là bài thơ đúng luật 6/8?, chết liền! (…)
Đọc thơ, phân tích, bình thơ, đánh giá người đừng nhìn chúng trong lớp áo chủ nhân là quyền thế, bằng cấp, giải thưởng, huân chương mà hãy đặt chúng ngang hàng cùng một loại thì kết quả mới khả quan! Đừng “ thấy người sang bắt quàng làm họ”. Người giầu… cái ấy cũng sang. Kẻ hèn có chữ cũng hàng đứa ngu! (…)” [ Nhìn lại bến bờ , Nxb. Hội Nhà văn, H., 2008, tr. 431, 432, 433].
Đọc đoạn phê bình trên chắc chúng ta cũng thấy rằng người viết chê những đoạn thơ đó của hai nhà thơ nổi tiếng Nguyễn Du và Nguyễn Duy là đã gieo vần không đúng luật vì bị “cưỡng vận” và sai gần hết bài. Vậy, lời nhận xét đó có đúng không?
Trước hết, cần hiểu thế nào là vần thơ?
Vần thơ là sự hoà âm giữa hai hay nhiều âm tiết ở những vị trí nhất định trong dòng thơ, khổ thơ.
Cái tạo ra vần thơ chủ yếu là giống nhau ở khuôn vần và khác nhau phụ âm đầu, ví dụ:
Đôi ta làm bạn thong dong
Như đôi đũa ngọc nằm trongmâm vàng
(ca dao)
Có trường hợp giống nhau cả phụ âm đầu và khuôn vần nhưng phải khác nhau dấu thanh điệu (hiện tượng này ít hơn), ví dụ:
Cầu cong như chiếc lược ngà
Sông dài mái tóc cung ngabuông hờ
(Nguyễn Bính)
Nếu trùng lặp hoàn toàn cả phụ âm đầu, khuôn vần và thanh điệu thì đó là hiện tượng lặp từ, nghèo nàn về vốn từ và là điều tối kị khi làm thơ, ví dụ:
Lớp ta quyết chí thi đua
Giành giải học giỏi, thi đuanhất trường
Trong thơ lục bát, âm tiết cuối câu 6 vần với âm tiết cuối câu 8. Âm tiết cuối câu 8 lại vần với âm tiết cuối của câu 6 tiếp theo. Chữ kết thúc của các câu bao giờ cũng là thanh bằng. Nếu chữ kết thúc các câu là thanh trắc thì đọc lên nghe rất ngang tai, mà nếu muốn “thuận lỗ nhĩ” thì phải đọc theo kiểu thơ… Bút Tre, ví dụ:
Em là cô giáo dạy toan(toán)
Suốt ngày công thức với toàn số liêu(liệu)
Nhiều lúc như khóc như mêu(mếu)
Học sinh không hiểu vẫn kêu khó lằm(lắm)
Đã giảng đến năm bảy lần
Học sinh vẫn bảo cô cần giảng lai(lại)
Một điều đáng lưu y là: hai âm tiết làm vần thơ trong câu bát bao giờ cũng cùng âm điệuvà đối lập nhau về âmvực, tức là cùng mang thanh bằng nhưng nếu âm tiết thứ 6 của câu hát mang thanh caothì âm tiết thứ 8 của câu bát lại mang thanh thấpvà ngược lại. Hay nói khác đi nếu âm tiết thứ 6 của câu bát mang thanh không dấuthì âm tiết thứ 8 trong câu bát mang thanh huyềnvà ngược lại.
Dưới góc nhìn của ngữ âm học, chúng ta có thể thấy: Những nguyên âm làm âm chính trong những âm tiết gieo vần với nhau thường đồng nhất cùng hànghoặc cùng độ mở.
Căn cứ vào vị trí cấu âm, độ nâng của mặt lưỡi và độ mở rộng hay hẹp của miệng, các nguyên âm chia ra:
- Nhóm nguyên âm hàng trước không tròn môi: I, ê, e, iê, ia
- Nhóm nguyên âm hàng sau tròn môi: u, ô, o, uô, ua
- Nhóm nguyên âm hàng sau không tròn môi: ư, ơ, â, a, ă, ươ, ưa
- Nhóm nguyên âm hẹp: I, ư, u, iê, ươ, ưa
- Nhóm nguyên âm hơi hẹp: ê, ơ, â, ô
(Nhóm hẹp và hơi hẹp còn gọi là nhóm nguyên âm tốithường gợi cảm giác u ám, tối tăm, buồn bã…)
- Nhóm nguyên âm rộng; a, ă
- Nhóm nguyên âm hơi rộng: e, o
(Nhóm rộng và hơi rộng còn gọi là nhóm nguyên âm sáng, thường gợi cảm giác rộng rãi, sáng sủa, vui vẻ…)
Hoặc những phụ âm cuối trong những âm tiết gieo vần với nhau có thể là cùng nhóm phụ âm tắc(p, t, c, ch) hoặc cùng nhóm phụ âm vang(m, n, ng, nh), tuy nhiên với điều kiện âm chính của những âm tiết ấy phải cùng nhóm nguyên âm và cùng nhóm thanh điệu (cùng bằng hoặc cùng trắc), ví dụ: tancó thể vần với tam, tang, tanh; tắpcó thể vần với tắc, tắt; đêmcó thể vần với miền, em.
Điềucó thể vần với theo; nhiều có thể vần với nghèo vì âm chính iêvà elà cùng hàng trước không tròn môivà âm cuối u(trong âm tiết nhiều, điều ) và o(trong âm tiết nghèo, theo ) tuy hai chữ nhưng là một âm / u /vì âm cuối / u /sẽ được viết là onếu âm tiết có vần aohoặc eo.
Bài - lời – dàicó thể vần vì âm cuối iđồng nhất, âm chính avà ơcùng nhóm nguyên âm hàng sau không tròn môi
Viên – chencó thể vần được vì âm cuối iđồng nhất, âm chính iêvà ecùng nhóm nguyên âm hàng trước không tròn môi
Râmcó thể vần được với thân vì âm chính đồng nhất còn âm cuối mvà nlại cùng nhóm phụ âm vang
Thêm – riêng – nêncó thể vần được vì âm chính êvà iêcùng nhóm nguyên âm hàng trước không tròn môi. Và âm cuối m – ng –n lại cùng nhóm phụ âm vang.
Người - đờicó thể gieo vần được vì âm chính ươvà ơcùng nhóm nguyên âm hàng sau không tròn môi, âm cuối iđồng nhất.
Tre – đicó thể gieo vần vì âm chính e – icùng nhóm nguyên âm hàng trước không tròn môi, âm cuối Zerođồng nhất.
Măng – congcó thể gieo vần vì âm chính ă – o cùng nhóm nguyên âm sáng, rộngvà âm cuối ngcùng nhóm phụ âm vang
Sau – đâucó thể vần với nhau vì âm cuối u đồng nhấtvà âm chính ă được viết là a(lưu ý: âm tiết ó vần au, aynhư đau, taythì âm chính ăđược viết là a, đau tayđáng lẽ phải được viết là đău tăi) trong âm tiết sau và âm chính âtrong âm tiết đâu cùng nhóm nguyên âm hàng sau không tròn môi.
Nếu có băn khoăn thì có lẽ là ở hai âm tiết cong - nhường trong câu thơ sau của Nguyễn Duy:
* Loài tre đâu chịu mọc cong
Có manh áo cộc tre nhườngcho măng
Tất nhiên cong - nhường không vần được với nhau rồi, nhưng đây lại là câu thơ mà người phê bình đã dẫn nguồn sai. Đúng ra phải là:
Loài tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chônglạ thường
Lưng trần phơi nắng phơi sương
Có manh áo cộc tre nhườngcho măng
Thì cong và chông hoàn toàn có thể gieo vần với nhau. Vì âm chính của cong là ov à âm chính của chônglà ôđều cùng nhóm nguyên âm hàng sau tròn môi; âm cuối nglại hoàn toàn đồng nhất. Còn các âm tiết thường, sương, nhường mà gieo vần với nhau thì quá chuẩn rồi, không nên bàn cãi nữa.
Tất cả bài thơ “Tre Việt Nam” có 30 câu với 15 cặp lục bát, bao gồm 15 cặp âm tiết gieo vần, toàn bài gieo vần đều đúng nguyên tắc ngữ âm học.
Nếu có ép vần, cưỡng vận thì hình như chỉ có cặp xanh – mình trong thơ Nguyễn Duy:
Yêu nhiều nắng nỏ trời xanh
Tre kia không tự khuất mìnhbóng râm
và cặp âm tiết than – viên vắt vần ở chữ cuối câu 8 dòng trên với chữ cuối câu 6 dòng dưới trong thơ Nguyễn Du:
Hết lời không nhẽ chối lời
Cuối đầu nàng những ngắn dài thở than
Nhà vừa mở tiệc đoàn viên
Hoa soi ngọn đuốc hồng chen bức là
Nhưng tại sao đọc những câu thơ này vẫn không thấy ngang tai? Có lẽ tại vì âm cuối của xanh và mình , than – viên đều đồng nhất và hai cặp âm tiết này đều cùng nhóm thanh bằng. Phải chăng những âm tiết gieo vần với nhau thì âm cuối và thanh điệu có vai trò quyết định chính (?). Hãy so sánh: tinvới timcó thể gieo vần nhưng timvới tímthì không thể.
Cả một “Truyện Kiều” mấy nghìn câu, có một số vận mẫu mà tác giả kia coi là sai… thi pháp thì dưới góc nhìn ngữ âm học, gieo vần như thế đâu có gì sai?
Có lẽ không nên lớn tiếng chê vần luật thơ lục bát của Nguyễn Du và Nguyễn Duy quá lên như vậy!
Chúng ta vẫn hoàn toàn có thể tự hào về thơ lục bát cổ điển của Nguyễn Du và thơ lục bát đương đại của Nguyễn Duy, thể thơ mà chỉ Việt Nam mới có.
Tài liệu tham khảo và trích dẫn
1. Phạm Quốc Ca, Mấy nhận xét về thể thơ trong thơ trữ tình Việt Nam1975 – 2000(in trong Văn học Việt Nam sau 1975, Nxb. Giáo dục, H. 2006).
2. Nguyễn Duy, Cây tre Việt Nam (in trong Tiếng việt lớp 4, sách giáo khoa, Nxb. Giáo dục, H., 2008).
3 Nguyễn Thiện Giáp, Giáo trình Ngôn ngữ học, Nxb. Đại học Quốc gia, H., 2008.
4. Ngọc Thiên Hoa, Nhìn lại bến bờ, Nxb. Hội Nhà văn, H., 2008.
5. Trần Đăng Khoa, Chân dung và đối thoại 8(annonymous. Online.fr).
6. Hoàng Kim Ngọc, Quy luật phân bố âm chính, âm cuối, thanh điệu trong những vần thơ Việt Nam, (in trong Tiếng Việt thực hành, Giáo trình dành cho sinh viên Khối trường Văn Hoá, Nghệ thuật và Du lịch, tái bản lần thứ 5, Nxb. Văn hoá Thông tin, H., 2009, tr. 44, 45, 48, 50).
7. Đoàn Thiện Thuật, Ngữ âm học tiếng Việt, Nxb. Đại học Quốc gia, H., 2003.