"Thăng Long phi chiến địa"
Và mỗi khi giới thiệu về Hà Nội, câu chuyện “trả gươm” của vua Lê mà chứng tích vẫn hiển hiện qua bóng dáng “Cụ Rùa” khi nổi khi chìm trong bóng nước Hồ Gươm… vẫn luôn là câu chuyện mở đầu đặc sắc nhất.
Rồi ta cũng biết đến ba lần quân Nguyên Mông đánh chiếm nước ta là 3 lần vua Trần bỏ thành Thăng Long về... quê, hội quân chờ cơ phá giặc.
Đến thời Lê thì kế sách "tâm công" khiến quân ta vây hãm rồi vào thành Đông Quan không nhiều máu chảy đầu rơi mà lại lập "hội thề" nguyện đôi bên muôn đời hoà hiếu, rồi lại cấp thuyền cấp ngựa cấp lương cho quân xâm lược hồi hương... Tiếp đó đức Lê Thái Tổ làm nên truyền thuyết "hoàn kiếm" như trên đã nhắc...
Nhưng có điều chắc chắn, trong ngót một trăm năm cuối thế kỷ XIX bắc cầu qua thế kỷ XX, Thăng Long, Hà Nội đã không còn là phi chiến địa nữa. Trận quyết chiến chiến lược khởi nổ từ chiến thắng Ngọc Hồi cho đến Đống Đa vào mùa Xuân Kỷ Dậu (1789) đã kết thúc trận thần tốc đại phá quân Thanh, để lại một hình ảnh hùng tráng đầy thi vị: Anh hùng Quang Trung-Nguyễn Huệ khoác áo vải, dưới cờ đào còn vương mùi thuốc súng, cưỡi trên lưng voi, cùng đại quân Tây Sơn tiến vào giải phóng Thăng Long...
Rồi những trận đánh dữ dội với sức mạnh của hoả khí Tây phương, nay còn lưu dấu trên mặt thành Cửa Bắc khiến Hà Nội hai lần thất thủ và hai vị tổng đốc đều hy sinh lẫm liệt cách nhau không đầy một thập kỷ... Và một trận chiến dữ dội kéo dài tới 60 ngày đêm giành giật từng con đường góc phố Thủ đô giữa những kẻ chiếm đóng không chịu buông bỏ thuộc địa với những con người mới trở thành công dân của một nước Việt Nam độc lập mang tinh thần "quyết tử để Tổ quốc quyết sinh"...
Và trận chiến cuối cùng cách đây đúng 35 năm. Đó là một kỳ tích mà chỉ có cách định danh bằng sự so sánh "Điện Biên Phủ trên không" mới nói được hết tầm mức của sự kiện. Cuộc đương đầu chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mỹ đã làm nên một "Điện Biên Phủ trên không" với kỳ tích mà cho đến nay chưa một lần lặp lại ở bất kỳ đâu ngoài Việt Nam cảnh những chiếc máy bay chiến lược B52 bị bắn hạ. Và đúng với lời tiên đoán của Bác Hồ, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước sẽ có trận quyết chiến trên bầu trời Hà Nội. Chính “Điện Biên Phủ trên không” đã buộc Mỹ phải ký Hiệp định Parischấm dứt sự có mặt tại chiến trường Việt Nam .
Nhưng chiến tranh rồi sẽ qua đi. So với bề dài của lịch sử, chiến tranh chỉ là khoảnh khắc. Có lẽ vì thế mà dấu tích của chiến tranh dễ bị phai lạt cùng thời gian và trong tâm thức con người?
Cả cuộc kháng chiến chống Tống của triều Lý chỉ còn để lại bài "thơ thần" vang trên sông Như Nguyệt " Namquốc sơn hà Nam đế cư"... Cả ba lần đánh thắng giặc Nguyên - Mông ngoài vài áng văn chương tựa "Đoạt sáo Chương Dương Độ..." thì may mắn còn dấu tích một bãi cọc Bạch Đằng từng 3 lần chồng chất chiến công: Ngô Quyền chống quân Nam Hán, Lê Đại Hành chống Tống và Trần Hưng Đạo nhấn chìm giặc Nguyên - Mông.
Cả một chiến dịch thần tốc của Quang Trung nay chỉ còn lại một trong số 13 gò đất là mộ chôn xác giặc. Bước vào các bảo tàng ở nước ta dễ cảm thấy những khoảng trống lớn không hiện vật, không chứng tích tương xứng với tầm vóc vẻ vang được ghi trong sử sách... Đi khắp các bảo tàng trong cả nước, hình như chỉ có Bảo tàng Đồng Nai là giữ đựơc một cái mũ giáp của người xưa!
Phải nói rằng, ở nước ta di vật của chiến tranh "biến" nhanh một cách khủng khiếp. Biết bao nhiêu súng đạn, xe tăng đại bác, máy bay ngổn ngang một thời đều thành ra chè chai, đồng nát. Cả một Hàng rào điện tử Mac Namara hoành tráng là thế, chẳng mấy chốc biến thành linh kiện và thành mành mành kết từ dây điện. Các bãi pháo thì biến thành khu dân cư, các sân bay dã chiến chỉ một thoáng là đường băng rải thép chỉ còn trơ nền đất v.v... Cả một toà bảo tàng chứng tích chiến tranh quý giá ở thành phố nọ chỉ "cần một dự án treo" là bị xoá sổ v.v...
Với một chiến tích hoành tráng cách đây mới 35 năm, có thể nói là thuộc "đẳng cấp quốc tế" vì chưa đâu hạ nổi một chiếc B52 nay đã thấy lo là liệu còn giữ được bao nhiêu lâu nữa. Cái tên đặt cho một con đường "Chiến thắng B52" gắn với không gian lịch sử của lực lượng phòng không không quân anh hùng nay cũng đã bị thay thế. Ngày xưa nhiều xác B52 quá phải "nhốt" trong Vườn Bách Thảo, nay tuy còn ở mấy bảo tàng lớn nhưng phơi nắng phơi gió ngoài trời đầy những chất ô nhiễm mà không có nhiều kinh phí bảo quản thì được mấy nả mà không tiêu tan? Hình tượng xác máy bay rơi xuống hồ Hữu Tiệp giữa làng Hoa Ngọc Hà đúng là thơ mộng nhưng lại vô cùng trái khoáy với khoa học bảo tồn, ngâm dưới nước liệu mấy đời người được chiêm ngưỡng?
Đội ngũ những người duy nhất trên thế giới hạ gục B52 bằng máy bay hay tên lửa sẽ thưa dần mà ký ức của họ chưa phải đã được khai thác hết... Tất cả dự báo trước là một ngày không xa, chỉ dăm bảy thế hệ nữa không chừng lại giống như trận đánh thần tốc của thời Tây Sơn cũng chỉ còn lại một cái gò... Ấy vậy mà chưa chắc đã bằng. Vì Tây Sơn còn có Ngày Giỗ trận vào mỗi mùng 5 Tết âm lịch.
Tôi cứ ao ước và hình dung rằng trong mỗi năm hãy chọn lấy một ngày. Ngày ấy có thể là ngày đầu hay ngày cuối hoặc 1 trong chuỗi 12 ngày đêm đã diễn ra trận Điện Biên Phủ trên không năm 1972. Trong ngày ấy hãy giành lấy một vài phút.
Vào vài phút ấy, tại những địa điểm gắn bó với chiến tích năm xưa, người ta hạ ánh sáng tối đi một chút như ánh đèn phòng không năm xưa, người ta cho nổi lên một hồi còi và những âm thanh quen thuộc của năm xưa "Đồng bào chú ý, đồng bào chú ý, máy bay địch cách Hà Nội.......... (rồi) máy bay địch đã bay xa", cùng những lời cảnh báo, lời cổ vũ, những bài hát của một thời đã qua. Những ai có ký ức sẽ hồi tưởng, mọi người sẽ tưởng nhớ đến những người đã chết vì bom đạn và tự hào về chiến công giữa ánh pháo hoa rực sáng gợi lại những đường bay của “Rồng lửa Thăng Long” và hệ thống phòng không thần kỳ của Hà Nội từng được thế giới thán phục.
Chỉ một vài phút trong một năm thôi, cũng có thể bảo tồn mãi mãi... như bao đời nay ta được dự Hội Gióng, hay được Giỗ Trận Đống Đa. Đấy là sức mạnh của lễ hội, của một loại hình văn hoá phi vật thể mà chúng ta ít quan tâm.
Trên đây là nội dung một bài báo tôi viết từ lâu. Đem ra đọc lại tại một cuộc hội thảo với chủ đề Hà Nội thành phố Hoà Bình và Phát triển có lạc điệu hay không? Nói cách khác, là một nhà sử học tôi muốn bày tỏ quan điểm của mình là cần nhận thức cho đúng về hai cái mục tiêu chúng ta đang khẳng định và muốn vươn tới như đặc trưng của thành phố thủ đô thân yêu của chúng ta. Điều này càng đặc biệt để cần thiết đối với các thế hệ trẻ của hôm nay và mãi mãi sau này sẽ được sống trong một thành phố hoà bình và phát triển.
Bởi lẽ bản chất của Hoà bình và phát triển là những mục tiêu mà các thế hệ đã phải phấn đấu, đôi khi trả giá bằng nhau. Cần nói lên lòng khao khát Hoà bình được thể hiện qua những bài học lịch sử để lại. Câu mở đầu trong kiện lịch sử nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Lời kêu gọi Toàn quốc Kháng chiến” (19 – 12 – 1946) có thể coi như một tổng kết lịch sử về bản chất của dân tộc chúng ta mà mà Hà Nội là biểu tượng: “Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân càng lấn tới… Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Lịch sử lại chứng minh rằng, chính với tinh thần ấy, cuộc kháng chiến của toàn dân tộc ta trên khắp các chiến trường từ Bắc chí Nam đã mang đến một thành quả rực rỡ biểu hiện trong một sự kiện lịch sử mà năm nay chúng ta kỷ niệm lần thứ 54: Giải phóng Thủ đô (10 – 10 – 1954). Trên thực tế, đó là ngày tiếp quản Thủ đô thân yêu trong không khí hoà bình và trên một thành phố nguyên vẹn không có một tiếng súng. Bởi vì, cái khung cảnh “giải phóng hoà bình” ấy là kết quả của biết bao hy sinh mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ khiến kẻ thù phải ký kết Hiệp định Giơnevơ (20 – 7 – 1954) rút hết quân khỏi miền Bắc nước ta.
Ý niệm đẹp đẽ về một “Thăng Long phi chiến địa” phải được hiểu sâu sắc bởi một lịch sử hào hùng và đáng tự hào như vậy. Đó cũng chính là nền tảng cho một sự phát triển bền vững của Thủ đô chúng ta biểu tượng của sức mạnh hội tụ và lan toả những ý chí của cả dân tộc. Hoà bình và Phát triển chính là nỗ lực của chúng ta thực hiện mong ước giữ vững một truyền thống ngàn năm.
(*) Tham luận tại Hội thảo “Hà nội Thành phố Hoà bình và phát triển” dô Liên hiệp các hội Hữu nghị Việt Nam của Thành phố Hà Nội tổ chức 10 – 2008.