Thách thức của ngành chăn nuôi trên thế giới
- Chăn nuôi và việc sử dụng thức ăn
- Chăn nuôi và môi trường (đất, không khí, nước)
- Chăn nuôi và đa dạng sinh học
- Chăn nuôi và dịch bệnh
- Chăn nuôi và đạo lý “hạnh phúc vật nuôi”
Các thách thức này chính là các khó khăn mà ngành chăn nuôi gặp phải trong quá trình phát triển. Để phát triển chăn nuôi một cách bền vững chúng ta cần phải vượt qua các thách thức đó.
Thách thức 1: Chăn nuôi và việc sử dụng thức ăn
Thực chất của ngành chăn nuôi là biến các sản phẩm sơ cấp (sản phẩm của ngành trồng trọt: cỏ, cây…) thành các sản phẩm thứ cấp (sản phẩm của ngành chăn nuôi: thịt, trứng, sữa…).
Thức ăn chăn nuôi thường chiếm 70% giá thành sản phẩm chăn nuôi và xuất phát từ 3 nguồn chính là đồng cỏ, cỏ và cây trồng, phụ phẩm cây trồng, phụ phẩm của các nhà máy chế biến thực phảm và chất thải nhà bếp.
1/ Đồng cỏ và cỏ
Diện tích đồng cỏ chiếm khoảng 40% diện tích đất đai trên thế giới. Có 2 loại đồng cỏ: đồng cỏ quảng canh và đồng cỏ thâm canh. Đồng cỏ quảng canh lại chia thành 2 loại: đồng cỏ quảng canh ở vùng đất xấu và đồng cỏ quảng canh ở vùng đất tốt.
- Đồng cỏ quảng canh ở vùng đất xấu: chiếm tới 60% diện tích đồng cỏ. Loại đồng cỏ này thường thấy ở vùng đất khô và lạnh thuộc châu Phi, cộng đồng các nước độc lập, Nam Á, Đông Á, Châu Đại dương và Bắc Mỹ.
- Đồng cỏ quảng canh ở vùng đất tốt: Loại đồng cỏ này thường thấy ở vùng nhiệt đới ẩm thuộc Tây Âu và Hoa Kỳ.
- Đồng cỏ thâm canh: Loại đồng cỏ này thường thấy ở những vùng có ít đất, có điều kiện thuận lợi về khí hậu, kinh tế thuộc châu Âu (Nam Anh, Bỉ, Hà Lan, Pháp, Đức, Bắc Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc).
2/ Cây trồng và phụ phẩm cây trồng
a. Cây trồng
Cây trồng được sử dụng làm thức ăn chăn nuôi là ngũ cốc, đậu đỗ, củ quả + rau và hạt cây có dầu.
- Ngũ cốc:
Trong năm 2002 toàn thế giới đã sử dụng 670 triệu tấn ngũ cốc làm thức ăn chăn nuôi (221 ha). Phần lớn ngũ cốc dùng cho loài vật nuôi có dạ dày đơn: lợn và gà. Đối với các loài vật nuôi có dạy dày kép: trâu và bò… ngũ cốc chỉ là thức ăn bổ sung, tuy nhiên bò thịt vỗ béo thâm canh và bò sữa cũng sử dụng khá nhiều ngũ cốc.
Trong ngũ cốc thì ngô và lúa mạch được sử dụng nhiều nhất: trong các năm 1961 – 2001 toàn thế giới đã sử dụng 60% ngô và lúa mạch sản xuất, được làm thức ăn chăn nuôi. Ngô chủ yếu được sử dụng ở Canada , Châu Âu, Đông Nam Á. (Từ năm 1994 trở đi các nước này đã chuyển sang sử dụng ngô là chính).
- Đậu đỗ
Trong năm 2001 toàn thế giới đã sử dụng 17 triệu tấn đậu đỗ làm thức ăn chăn nuôi, đậu đỗ là nguồn cung cấp protein quan trọng cho vật nuôi ở Pháp, Italia và Hà Lan.
- Củ quả và rau
Ngoài ngũ cốc và đậu đỗ, người ta cũng đã sử dụng các loại củ quả và rau làm thức ăn chăn nuôi. Trong năm 2001 toàn thế giới đã sử dụng 45 triệu tấn củ quả (chủ yếu là sắn, khoai tây, khoai lang, bắp cải…) để nuôi gia súc.
- Hạt cây có dầu
Các loại hạt cây có dầu như hạt đậu tương, hạt bông, hạt hướng dương… cũng là các nguồn thức ăn bổ sung cho vật nuôi. Năm 2001 toàn thế giới đã sử dụng 14 triệu tấn hạt cây có dầu (tương đương với diện tích trồng trọt: 6,4 triệu ha) làm thức ăn chăn nuôi.
b. Phụ phẩm cây trồng
Phụ phẩm cây trồng như rơm lúa, thân cây ngô… có thành phần dinh dưỡng thấp, tỷ lệ chất xơ cao.
Phụ phẩm cây trồng là nguồn bổ sung năng lượng và cung cấp chất xơ cho vật nuôi, đặc biệt là vật nuôi có dạ dày kép.
Phụ phẩm cây trồng là nguồn thức ăn quan trọng của vật nuôi ở các vùng khó khăn (trong đó, phần lớn người dân còn nghèo hoặc ở những vùng không có đồng cỏ và đồng cỏ bị tàn lụi). Phụ phẩm cây trồng cũng là nguồn thức ăn chăn nuôi không thể thiếu được của các hệ thống sản xuất hỗn hợp (trồng trọt và chăn nuôi).
Năm 2002 toàn thế giới đã sử dụng khoảng 672 triệu tấm rơm ngũ cốc và 67 triệu tấn các phụ phẩm cây trồng khác làm thức ăn chăn nuôi. Tỷ lệ phụ phẩm cây trồng được sử dụng làm thức ăn chăn nuôi ở các nước rất khác nhau: Ở Bangladesh là 70%; ở Trung Quốc và các nước Đông Nam Á là 25 – 30%; ở Thái Lan là 15%.
Gần đây việc sử dụng phụ phẩm cây trồng làm thức ăn chăn nuôi bị giảm sút vì:
- Giống cây trồng được cải tiến làm giảm tỷ lệ phụ phẩm và chất lượng phụ phẩm.
- Chăn nuôi thâm canh phát triển.
3/ Phụ phẩm của các nhà máy chế biến thực phẩm và chất thải nhà bếp
a. Phụ phẩm của các nhà máy chế biến thực phẩm:
Bao gồm khô dầu đậu tương và một số phụ phẩm khác.
- Khô dầu đậu tương: khi chế biến đầu tương thì dầu chiếm 18 – 19% còn lại là khô dầu đậu tương. Lượng khô dầu này đã dùng để chăn nuôi (chiếm 97%, còn 3% là sử dụng trực tiếp hạt đậu tương). Khô dầu dậu tương chủ yếu dùng cho vật nuôi dạ dày đơn (gia cầm và lợn). Năm 2002 toàn thế giới đã sử dụng 130 triệu tấn khô dầu đậu tương cho chăn nuôi. Lượng dầu đậu tương dùng cho chăn nuôi ngày càng tăng do người ta giảm lượng thức ăn protein có nguồn gốc động vật như bột thịt, bột cá do có bệnh bò điên.
- Một số phụ phẩm khác: Bã bia, bã cam quýt, bã cà chua, bã củ cải đường… của các nhà máy cũng là một nguồn thức ăn chăn nuôi. Ở Nhật Bản, 30% phụ phẩm của các nhà máy chế biến thực phẩm được sử dụng phục vụ chăn nuôi.
b. Chất thải nhà bếp
Là nguồn thức ăn quan trọng của phương thức chăn nuôi nhỏ lẻ trong các gia đình ở nông thôn.
Ngoài các thức ăn trên, gần đây công nghiệp chế biến thức ăn đã sản xuất ra các loại thức ăn bổ sung công nghiệp cho vật nuôi như lysine, methionine…
Như vậy ngành chăn nuôi đã sử dụng một lượng lớn các loại thức ăn thô, tinh, bổ sung từ đồng cỏ và cỏ, cây trồng và phụ phẩm cây trồng, phụ phẩm của các nhà máy chế biến thực phẩm và chất thải nhà bếp, thức ăn bổ sung công nghiệp.
Nhưng hiệu suất chuyển hóa các loại thức ăn này thành sản phẩm chăn nuôi còn thấp: 5 – 38% (tùy theo loại vật nuôi và sản phẩm tạo ra).
Người ta đã ước tính hàng năm:
- Lượng protein tiêu hóa mà loài người đã cung cấp cho vật nuôi là 77 triệu tấn.
- Nhưng lượng protein tiêu hóa mà vật nuôi đã cung cấp cho loài người là 58 triệu tấn.
Một số loài vật nuôi như lợn, gà… lại sử dụng quá nhiều thức ăn tinh. Ước tính mỗi năm ngành chăn nuôi trên thế giới đã sử dụng 40 – 50% lượng thức ăn hay sản xuất được.
Do đó nhiệm vụ của các nhà chăn nuôi là:
- Nâng cao hiệu suất sử dụng thức ăn của các loài vật nuôi bằng phương pháp chọn, tạo giống và xác lập chế độ dinh dưỡng hợp lý.
Sử dụng các loài vật nuôi sử dụng ít thức ăn hạt.