Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 22/02/2010 16:33 (GMT+7)

Takamine & thuốc taka – diastase

Kết quả vượt quá sự mong đợi. Người tiêu dùng cho rằng, thuốc tiêu hoá được mọi thực phẩm ăn vào, chớ chẳng riêng gì tinh bột. Người ta thắc mắc: Diastase ó nghĩa là thuỷ giải, nhưng vì sao lại kèm với từ Taka nghe có vẻ “Made in Japan ”.

Sự thật, cha đẻ của thuốc trợ tiêu hoá này là một nhà khoa học người Nhật, tên Jokichi Takamine. Ông sinh ra và lớn lên ở Nhật, nhưng công trình thành công mang tính tiên phong đột phá này của ông được thực hiện tại Hoa Kỳ, nên Hoa Kỳ tôn vinh ông là người “cha Nhật của công nghệ sinh học Hoa Kỳ”.

Jokichi Takamine sinh ngày 3 – 10 – 1854, tại Takaoka, Nhật. Cha là thầy thuốc, mẹ xuất thân từ một gia đình có nghề gia truyền làm rượu Saké. Năm 1872, ông học Đại học Tokyo . Năm 1878, ông được sang Scotlandđể làm nghiên cứu sinh ở Đại học Glasgow .

Một thời gian dài ông hoạt động trong lĩnh vực phân bón. Nhân chuyến công tác tại New Orleans , Hoa Kỳ, Takamine kết hôn với cô Caroline Field Hitch và đưa vệ về Nhật, sinh được 2 con, rồi sau đó trở sang Hoa Kỳ sinh sống.

Tại Hoa Kỳ lần này, ông rời lĩnh vực phân bón và chuyển sang công nghệ sản xuất cồn và rượu theo kiểu Nhật, theo nghề của mẹ ông.

Tại Hoa Kỳ, người ta đường hoá tinh bột để lên men rượu bằng mầm lúa đại mạch, trong khi ở Nhật, người ta dùng mốc hoa cau loại thường rất phổ biến ở Nhật, Trung Quốc, Việt Nam . Nhật để làm rượu và ở Việt Nam để làm tương Bắc. Mầm đại mạch phải tốn lúa đại mạch và qua nhiều công đoạn. Trong lúc để có nấm hoa cau, người Nhật nấu gạo thành cơm, Việt Nam nấu nếp thành xôi, để ra ngoài trời, bào tử mốc hoa cau từ không khí rơi vào mọc thành những đốm màu hoa cau. Rồi cứ thế mà nhân lên.

Mốc hoa cau thu hoạch đơn giản, hiệu suất đường hoá tinh bộ cao hơn mầm đại mạch. Jokichi Takamine trình bày ý kiến này với công ty Whiskey Trust và các công ty bia ở Chicagovà Peoriabang Illinois . Các công ty này đã cho Takamine cơ hội, kết quả cho thấy mốc hoa cau rút ngắn quy trình đường hoá tinh bột, nên rượu sản xuất ra giá thành sẽ hơn rất nhiều. Các công ty đã đặt hàng với Takamine và để sản xuất mốc hoa cau đại trà, Takamine hợp tác với một nhà máy. Chẳng may, nhà máy này bị cháy, ông trở nên thất nghiệp, đời sống khó khăn, lại bị bệnh phải phẫu thuật. Ông bỗng nhớ sáng kiến của mình, nên làm ngay thủ tục xin phép cấp bằng sáng chế và quy trình sản xuất men đường hoá. Vượt qua bao nhiêu phản biện khắt khe của các nhà khoa học lừng danh Hoa Kỳ; cuối cùng, năm 1894, Jokichi Takamine đã được cấp bằng sáng chế kèm theo một số tiền thưởng. Công trình được đánh giá cao vì mốc hoa cau là loại nấm Aspergillus oryzoaeđược biết từ lâu. Nhưng Takamine là người đầu tiên nghĩ ra cách sản xuất mốc hoa cau đơn giản. Takamine dùng rơm rạ, về sau dùng cám, trộn ít bào tử mốc hoa cau, sau đó cho chất dinh dưỡng và muối khoáng vào nuôi cấy một thời gian. Bào tử sẽ phát triển thành mốc màu vàng hoa cau bám dày đặc trên các cọng rơm. Dùng dung dịch nước muối để lấy mốc ra và trích enzym do các tế bào mốc tiết ra.

Ý định của Jokichi Takamine là sản xuất ra enzym để đường hoá tinh bột làm rượu. Tuy nhiên, Saké là Saké mà Whisky là Whisky. Người Mỹ quen với Whisky có mùi đặc trưng làm từ mầm lúa đại mạch, một khẩu vị, một thói quen lâu đời khó đổi. Men mốc hoa cau, sau những ngày sôi động đã lắng xuống.

Chính vào lúc này, Jokichi Takamine lại nhớ đến nghề thuốc của cha, người đã từng sử dụng mốc hoa cau để chữa trị cho người bệnh khó tiêu. Takamine dồn hết thời gian nghiên cứu kỹ về khả năng trị bệnh khó tiêu. Ông chứng minh khoa học công dụng trị chứng khó tiêu của men hoa cau và nhiều ứng dụng trong y học. Cục Sở hữu trí tuệ lập tức cấp cho ông chứng nhận. Công ty Dược Parke Davis đã nhanh chóng hợp tác với Takamine và sản phẩm Taka – Diastase của ông đã chinh phục thị trường, mặc dù lúc ấy men trích từ mốc hoa cau vẫn còn là một hỗn hợp thô. Phải đến năm 1897, Edward Buchner mới chiết xuất từ nấm men enzym xúc tác quá trình chuyển hoá đường thành rượu.

Mãi đến năm 2001, các nhà khoa học mới phân tích kỹ và biết rõ bộ gen di truyền của Aspergillus oryzae,loại mốc này được dùng trong công nghiệp để sản xuất nhiều loại enzym khác nhau (amylase, protease, lipase, hemicellulase, cellulase, oxidoreductase, phytase, pectinesterase…).

Trong kỹ thuật làm rượu, làm tương cổ truyền, đã có một số sự cố gây nguy hiểm cho người dùng mà xưa kia không biết. Nay các nhà nghiên cứu đã cho biết loại mốc Aspergillus có 4 loại dễ nhầm lẫn với nhau. Loại A. oryzae và A. soijae và là loại không độc, còn loại A. flavus và A. parasiticus là 2 loại độc, tiết ra aflatoxin gây ung thư.

Chính vì thế, việc làm tương, rượu không thể phó mặc may rủi 50 - 50, cần phải sử dụng các chủng đã được thuần khiết, được cơ quan chuyên môn xác định.

Xem Thêm

Đắk Lắk: Người “gieo chữ” ở vùng cao
Có lẽ đây là một biểu tượng đẹp của lòng yêu nghề. thương yêu học trò, luôn tận tâm với nghề, có tinh thần sáng tạo và trách nhiệm xã hội, có phương pháp giảng dạy khoa học giúp học sinh yếu tiến bộ hơn…

Tin mới

Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học
Trong hai ngày 10-11/12, tại tỉnh Tuyên Quang, Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) đã tổ chức Chương trình chia sẻ với chủ đề “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học”. Chương trình do PanNature phối hợp đồng chủ trì cùng Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) và Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Tuyên Quang.
VUSTA chủ trì tổ chức Hội nghị Tổng kết hoạt động Cụm thi đua các tổ chức CT-XH và các tổ chức Liên hiệp năm 2025
Ngày 13/12, tại Vườn Quốc gia Cúc Phương (Ninh Bình), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã chủ trì tổ chức Hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 của Cụm thi đua các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức Liên hiệp.
Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam: Kiểm điểm, đánh giá chất lượng Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025
Ngày 12/12, Đảng bộ Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị kiểm điểm đối với tập thể, cá nhân Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025. Đồng chí Phạm Ngọc Linh, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Phó Chủ tịch Liên hiệp hội Việt Nam chủ trì Hội nghị. Tham dự có đồng chí Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam cùng các đồng chí trong BCH Đảng bộ.
Chủ tịch Phan Xuân Dũng dẫn đoàn Việt Nam tham dự Triển lãm quốc tế về Sáng tạo khoa học công nghệ (SIIF 2025) tại Seoul
Từ ngày 3-7/12, Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) được tổ chức tại thủ đô Seoul, Hàn Quốc. Theo lời mời của Hiệp hội Xúc tiến sáng chế Hàn Quốc (KIPA), Quỹ Sáng tạo kỹ thuật Việt Nam (VIFOTEC) đã thành lập đoàn tham gia Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) do TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam, Chủ tịch Quỹ VIFOTEC - làm trưởng đoàn.
Tìm giải pháp truyền thông đột phá cho phát triển khoa học công nghệ
Nghị quyết 57-NQ/TW xác định vị thế khoa học, công nghệ và chuyển đổi số là chìa khóa để Việt Nam vươn mình, trở thành quốc gia phát triển. Giới chuyên gia đưa ra lộ trình cụ thể giúp truyền thông chính sách thành hành động, từ xây dựng tòa soạn thông minh đến phát triển hệ sinh thái nội dung số.
Liên hiệp Hội Việt Nam tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ
Chiều ngày 09/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức buổi tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ. Đây là hoạt động tiếp nối tinh thần của Lễ phát động ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên do Liên hiệp Hội Việt Nam tổ chức vào ngày 24/11 vừa qua.
Trí thức Việt Nam đồng hành cùng tương lai Xanh
Đội ngũ trí thức Việt Nam luôn đóng vai trò then chốt với những đóng góp trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo, tư vấn chính sách và truyền cảm hứng cộng đồng. Những chuyển động mạnh mẽ về khoa học môi trường, năng lượng sạch, kinh tế tuần hoàn và công nghệ xanh trong thời gian qua có dấu ấn đậm nét của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ nước ta…