Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 18/12/2007 18:02 (GMT+7)

Suy nghĩ lại về nghề làm từ điển

Điều này gợi một sự suy nghĩ lại từ ngọn nguồn cho tới ngóc ngách của vấn đề, vì tương lai của nghề làm từ điển.

I.Người làm từ điển có cần được đào tạo về từ điển học ?Có thể nghĩ rằng từ điển học là phần lí thuyết của nghề làm từ điển (phần thực hành) không ? Có thật có cái gọi là từ điển học không, khi ngoài mấy lí thuyết về cấu trúc vi -vĩ mô, về cách định nghĩa, còn phần lớn vẫn là lí thuyết ngôn ngữ học nói chung, đặc biệt là từ vựng học, ngữ nghĩa học. Trong lịch sử của nghề làm từ điển ở ta, trừ trường hợp Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Đình Hoà, còn lại những Huỳnh Tịnh Của, Trần Trọng Kim và Đỗ Thận (2), Đào Duy Anh, Đào Văn Tập, Đào Đăng Vỹ, Thiều Chửu, Lê Bá Kông và Lê Bá Khanh, Nguyễn Văn Khôn, Thanh Nghị, Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ, Lê Khả Kế, v.v... đều chẳng những không được đào tạo về lí thuyết từ điển học, mà còn không phải là các nhà ngôn ngữ học nữa. Họ biên soạn từ điển thành công như các ca sĩ, người mẫu không qua các trường lớp sân khấu – điện ảnh mà vẫn thành công trong nhiều bộ phim nổi tiếng.

Tác giả của một cuốn sách chuyên về từ điển học vào hàng nổi tiếng nhất hiện nay trên thế giới, khi đặt tên cho cuốn sách ‘ruột’ của mình sau nhiều năm thai nghén, cũng phải thận trong viết : Từ điển : nghệ thuật và nghề của lexicography (3).Tại sao không gọi là Lí thuyết và Nghề ? Dấu hai chấm (:) có phải có ý muốn nói sau hai chấm là định nghĩa không ? Các định nghĩa về lexicography hiện nay cũng còn gây tranh cãi nhiều, có thể nêu ra một số :

1.công việc hoặc kĩ năng viết từ điển,

2.ngành của ngôn ngữ học ứng dụng đề cập đến việc biên soạn, biên tập và viết từ điển (hãy so sánh với định nghĩa của Từ điển tiếng Việt (4) : từ điển học = Bộ môn ngôn ngữ học nghiên cứu lí luận và kĩ thuật biên soạn các loại từ điển.),

3.hành vi viết từ điển

4.một phương pháp tìm trong các cách khác nhau dựa trên phép loại suy để có được cách sắp xếp các từ trong một cuốn từ điển,

5.là một trong hai thứ sau đây : a) lexicography thực hànhlà nghệ thuật hay nghề (art or craft) viết từ điển, b) lexicography lí thuyếtlà bộ môn khoa học phân tích và miêu tả các quan hệ ngữ nghĩa trong vốn từ vựng (semantic relationship within the lexicon [vocabularry]) của một ngôn ngữ. Người ta đôi khi còn gọi cái lexicography lí thuyếtnày là metalexicography,

6.có người lại cho lexicography lí thuyếtchính là từ vựng học,

7.đồng thời cũng đang có nhiều người cho rằng lexicography là một ngành khoa học có tư cách riêng đầy đủ của nó, chứ không phải là một phân ngành của ngôn ngữ học.

Trong thư tịch về từ điển hiện nay, người ta thấy nổi lên nhóm từ  ‘dictionary making’ (hay ‘the making – of of  dictionary) được dùng để chỉ công việc làm từ điển, tạo ra sự phân biệt rạch ròi dứt khoát hơn là từ lexicography.

II.Từ điển là gì ?Tổng quát nhất, nhiều người cho là: từ điển là một tài liệu tham khảo về từ vựng của một ngôn ngữ, là chỗ gặp nhau giữa thành tựu cao nhất về ngôn ngữ học (mọi lĩnh vực) vào thời điểm nào đó với việc sử dụng thực tế ngôn ngữ vào lúc đó (5).Như vậy điều khiến người ta nghĩ đến ngay là một cuốn từ điển đơn ngữ, phổ thông, xếp theo ABC, soạn cho người bản ngữ, ... (6) bởi vì đây là cái gốc của của mọi loại từ điển.

Xuất phát từ đấy, người ta mới phân loại từ điển theo nhiều cỏch, mà sớm nhất có lẽ là cách của Zgusta (7) và gần đây nhất, đầy đủ nhất là của Swanepoel (8). Song ngay cả cái đề nghị phân loại hiện đại nhất này cũng đang bị nhiều người trong giới phê bình là không đầy đủ, luẩn quẩn, và chẳng qua cũng chỉ là dựa trên nhiều đề nghị đã có, chưa đạt tới được sự phân loại mong muốn. Dù sao cũng có thể tóm tắt là có các loại từ điển: một ngữ và nhiều ngữ, phổ thông và chuyên ngành, để đọc hiểu hay để viết ra được (cho người bản ngữ hay người nước ngoài), một chiều hay hai chiều, xếp theo ABC hay loại ngữ nghĩa, bằng giấy hay điện tử, vv...

Chuyện tưởng chừng như đơn giản, nhưng khi được hỏi: “Cuốn từ điển Việt – Anh này ông soạn nhằm đối tượng người Việt học tiếng Anh hay người Anh học tiếng Việt?”, có nhà biên soạn vẫn trả lời tỉnh bơ: “Cho cả hai” (!?).

Trên giá sách của các hiệu sách, số lượng từ điển các loại rất lớn, nhưng chủng loại lại nghèo nàn. Người ta có thể thấy hàng vài chục cuốn từ điển cùng loại giống nhau đến 95%, nếu có khác đôi chút, chỉ là khác về dung lượng thu thập và ít nhiều chữ sửa đi đôi chút cho (ra vẻ khác người”.

III.Ai quyết định chất lượng của từ điển?Nói cho cùng, người dùng sẽ quyết định chất lượng của từ điển, tất nhiên là sau một thời gian dài bị lừa bởi những cuốn từ điển “dổm”, nhiều khi to xác mà rỗng ruột. Khi đã từng trải kinh nghiệm, người ta sẽ chỉ mua những từ điển của những nhà xuất bản có uy tín và các tác giả có uy tín. Và vì vậy, cũng có thể nói rằng, các ông chủ nhà xuất bản là lớp người thứ hai quyết định chất lượng của từ điển. ở đây, thường phải có sự nhân nhượng nhất định giữa yêu cầu rất chuyên môn của người biên soạn từ điển với yêu cầu thị trường của người bỏ vốn xuất bản từ điển. Song cũng chính ở đây, người ta đã tìm ra được hướng đi mới cho nghề làm từ điển, sẽ được bàn đến trong phần sau nói về việc sử dụng và người dùng từ điển.

IV.Việc sử dụng và người dùng từ điển: Không có các chủ xuất bản bỏ tiền cho các cuộc điều tra nghiên cứu, thì các nhà làm từ điển khó lòng có thể kham nổi (về mặt tài chính) việc nghiên cứu sự sử dụng từ điển và yêu cầu của người dùng từ điển. Nhờ có một số nghiên cứu đó mà người ta đã thấy thấp thoáng một số xu hướng như sau: người dùng chủ yếu và trước hết muốn tìm nghĩa của từ, sau đó mới là chính tả (viết thế nào là đúng), rất ít khi tra tìm phát âm. Còn các chú thích ngữ pháp, từ nguyên lại càng ít được người ta chú ý. Đặc biệt, còn được biết rằng người dùng thường bỏ qua không hề đọc những hướng dẫn nói về cấu trúc của cuốn từ điển mà anh /chị ta đang dùng.

Người ta cũng đã hơi “giật mình” trước hiện tượng được gọi là “cái tôi cần thì anh không cung cấp, cái anh cung cấp thì tôi không cần” hay “càng tìm trong từ điển càng ít thấy cái người ta cần” (9).

Chắc chắn không ai đem kiểu định nghĩa bằng các nguyên tố ngữ nghĩa (semantic primitives) của Anna Wierzbicka, như kiểu định nghĩa về từ buồn(10), để làm định nghĩa từ điển. Người ta cũng không thích kiểu định nghĩa được gọi là định nghĩa đại số học như “làm cho A gần với B nhờ môi giới của C”. Nhưng trong từ điển thông thường, không phải cũng không có những cách định nghĩa rối rắm như vậy: “ chẳng bù= tổ hợp biểu thị điều sắp nói là trường hợp không tốt trái ngược lại, nêu ra để đối chiếu làm nổi bật trường hợp vừa được nói đến; không so sánh được, vì khác hẳn.”

Người ta càng ngày càng cảm thấy (như Anna Wierzbicka đã đề xuất từ 1970) có một số đơn vị có tính chất nguyên tố trong mỗi ngôn ngữ, không cần và/vì không thểđịnh nghĩa (cho người thông thường) (11). Nhưng dường như các đơn vị này lại chính là cái thích thú cho những người làm từ điển (nhất là khi được học đôi chút về cái được gọi là từ điển học): người ta say sưa đi tìm những nét nghĩa rất tinh tế của ăn, làm, đánh, cho, vv... một cách rất vất vả (12), để rồi hầu như không có ai cần tra đến những từ như vậy, vì nó đã nằm lòng trong đầu người ta từ khi mới lên ba (tuổi) (13). Trong khi, cái mà người dùng cần đến không chỉ là nghĩa ngôn ngữ (14), mà còn phải mở rộng tầm hiểu biết của người ta ra nữa. Có lẽ vì nắm bắt được đặc điểm này mà Laroussecủa Pháp đã thành công trong một thời gian rất dài khi đưa thêm một số tri thức bách khoa vào định nghĩa của từ.

Những từ nào không cần định nghĩa, coi như “nguyên tô” trong một từ điển giải thích cho người bản ngữ không tương đồng với những từ được coi là cơ bản, tối thiểu, được dùng làm lời định nghĩa trong các từ điển đơn ngữ (giải thích) cho người nước ngoài học một thứ ngoại ngữ. Theo hướng này, các nhà xuất bản từ điển tiếng Anh đã cố gắng rút gọn số từ dùng để định nghĩa xuống còn khoảng 2000. Thật ra đó đâu đã phải là con số nhỏ: với mỗi từ không phải chỉ có một nghĩa và sự kết hợp thiên hình vạn trạng của chúng, 2000 là con số trung bình, đủ để cho bất kì người bản ngữ của quốc gia nào diễn đạt gần như đầy đủ các yêu cầu của cuộc sống thường ngày.

Nếu người dùng và các chủ xuất bản là người quyết định chất lượng của từ điển, có lẽ người biên soạn từ điển cũng nên có sự suy nghĩ lại để có thể đi đến chỗ gặp nhau một cách thoải mái.

                                                                                                      Chú thích:

(1)Vũ Quang Hào, Nxb Văn hoá, 1999.

(2)   Tuy không ghi tên, song ai cũng biết hai ông này nằm trong Ban văn học, Hội khai trí tiến đức, cơ quan khởi thảo bộ Việt Nam từ điển.

(3)S.I.Landau 1984. Dictionaries: The Art and Carft of Lexicography. New York : Scribners; 2nd ed., 2001. Trong bài này, tôi không dịch chữ lexicography là từ điển học, mà để nguyên, vì thế để tránh hiểu lầm, dành cho độc giả tự dịch. Trong tiếng Pháp, người ta cũng đã phân biệt lexicographievới dictionnairique(= công việc, nghề làm từ điển).

(4)Viện ngôn ngữ học, Nxb. Đà Nẵng và Trung tâm từ điển học, 2000.

(5)Trong bài “The dictionary: Definition and history” của Piet van Sterkenburg, in trong cuốn Piet van Sterkenburg (ed.) A Practical Guide to Lexicography. (Termonology and Lexicography Research and Practice 6.) Amsterdam/ Philadelphia : John Benjamins Publishing Company. 2003. xii + 459 pages, tr. 3-17.

(6)Để phân biệt với loại từ điển đơn ngữ gọi là từ điển đơn ngữ học tập, dành cho người nước ngoài học một thứ tiếng nào đó, chẳng hạn như các từ điển Oxford hay Longman đơn ngữ tiếng Anh dành cho người ngoại quốc.

(7)L. Zgusta 1971. Manual of Lexicography. The Hague : Môutn. Trước Zgusta, có Malkiel (1959) và Thomas Sebeok (1962) cũng đã có một số đề xuất về phân loại từ điển, song chưa có được tiếng vang như Zgusta. Xấp xỉ đồng thời với Zgusta còn có Ali-M-Al-Kasimi cũng có một đề xuất khác, nhưng ít được người sau nói đến.

(8)Trong bài “Dictionary typologies: A pragmatic approach: của Piet Swanepoel, in trong cuốn Piet van Sterkenburg (ed) sđd., tr.44 – 69. Trước Swanepoel, Bo Svensen (1993) cũng là một tổng kết về phân loại từ điển.

(9)The longer one searches in the dictionary the less one find what was needed’, trong Piet van Sterkenburg (ed.) sđd., tr.33.

(10)buồn: “X cảm thấy buồn = X cảm thấy cái gì đó/ đôi khi một người nghĩ về một cái gì đó nhu thế này: “Cái gì đó xấu đã xảy ra / nếu tôi không biết là nó đã xảy ra thì tôi đã nói: “Tôi không muốn nó xảy ra”/ Bây giờ tôi không nói điều đó vì tôi không biết: “Tôi không làm gì được”/ vì lẽ đó, người này cảm thấy cái gì đó xấu/ X cảm thấy cái gì đó như vậy.” Đương nhiên, việc nghiên cứu chẻ sợi tóc làm như thế này rất có ích về mặt nghiên cứu lí thuyết.

(11)Thật ra, ý tưởng này đã được các nhà triết học thế kỉ XVII phát biểu khá rõ ràng. “Nếu không có cái gì được quan niệm thông qua chính bản thân nó, thì cũng không có cái gì có thể quan niệm được” (if nothing is conceived through itself, nothing could be conceived at all (Leibniz – dẫn theo DASCAL, M. (1987). Leibniz. Language. Signs and Thought. Amsterdam : John Benjamins) và “Tôi nói rằng dường như không thể định nghĩa cho mọi từ. Vì để định nghĩa một từ thì cần phải dùng các từ khác nói lên cái ý mà ta muốn liên kết với cái ý được định nghĩa. Và nếu ta muốn định nghĩa những từ được dùng để giải thích cái từ đó, thì ta có thể còn cần những từ khác nữa và cứ như vậy đến chỗ vô cùng. Do đó, ta ắt phải dừng ở các từ ngữ nguyên thuỷ để nguyên không định nghĩa.” (Arnault và Nicole, La logique ou l’art de penser, 1662).

(12)Xin hãy đem những kết quả nghiên cứu này công bố trên các tạp chí chuyên ngành, chứ đừng dưa vào từ điển phổ thông.

(13)Trẻ con thậm chí còn có khả năng tự tổ hợp cả những yếu tố từ vựng không độc lập để cấu tạo thành những từ mới, cho đến khi cuộc đời dạy cho chúng là những từ ấy (như chúng tạo ra) không thực sự tồn tại; ví dụ: có đứa trẻ đã nói với bố mẹ chúng:”bố mẹ cứ đề cao em mà đề thấp con nhé!”.

(14)mà nhiều khi cũng chỉ chú ý đến nghĩa nhận thức (denotative), mà bỏ sót nghĩa biểu cảm (connotative).

Nguồn: TC Ngôn ngữ - Đời sống, số 12 (110) – 2004

Xem Thêm

An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đại hội thi đua yêu nước Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ V
Đây là sự kiện chính trị quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc trong công tác của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), là ngày hội tôn vinh điển hình tiên tiến các tập thể, cá nhân nhà khoa học trong hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu, đóng góp cho công tác hội và sự nghiệp KH&CN nước nhà.
THI ĐUA LÀ YÊU NƯỚC!
Năm 2025 không chỉ đánh dấu nhiều ngày lễ trọng đại của đất nước, mà còn là mốc son đưa Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thảo luận, đề xuất các giải pháp phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững
Ngày 6/6, Liên hiệp Hội Việt Nam phối hợp với Tổng Hội Xây dựng Việt Nam tổ chức Hội thảo Phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững. Các chuyên gia, nhà khoa học tại hội thảo đã làm rõ vai trò và nhu cầu cấp thiết của phát triển hạ tầng xanh, đồng thời đề xuất nhiều giải pháp về chính sách và công nghệ.