Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 22/08/2007 14:42 (GMT+7)

Phép nhuận trong âm lịch

Lịch Trung Quốc chú trọng đến tháng Âm lịch, tức tháng theo tuần Trăng. Hơn 3.000 năm nay, người Trung Quốc đã biết đến một tuần Trăng chỉ hơn 29 ngày rưỡi và năm Mặt Trời hơn 365 ngày. Đến đời Tấn (265 - 402 sau CN), Tổ Xung Chi (nhà thiên văn và toán học) mới tính ra năm Xuân Phân là 365,2422 ngày và tháng Trăng là 29,530 ngày.

Con số chính xác của hôm nay là:

- Năm Xuân Phân = 365,2421896698 ngày.

- Tháng Mặt Trăng = 29,5305888531 ngày.

Từ đó ta hiểu, năm Xuân Phân chậm hơn năm Âm Lịch là 10,865 ngày. Để thời tiết mỗi năm không thay đổi, và để Âm lịch, Dương lịch song hành, các nhà thiên văn cổ cố gắng cài thêm một tháng Trăng vào trong “mỗi khoảng ba năm”, tính theo cách thông thường người bình dân nói: “Tam niên nhất nhuận, ngũ niên tái nhuận”. Trong bộ sách Cổ Thượng Thư(viết khoảng 3.000 năm trước đây), chương Nghiêu Điển có nói việc vua Nghiêu đã đặt ra phép Nhuận lịch.

Chukỳ Nhuận trong âm lịch

1) Năm thứ 8 đời Chu Định Vương (-595), nhà Chucải cách Lịch, quan Khâm Thiên loan báo:”Cứ 19 năm có 235 tháng (Trăng)”. Như vậy có nghĩa, 19 năm có 7 tháng nhuận. Trong khi đó ở Hi Lạp (một nước ở Cực Đông Nam châu Âu hiện nay, nước ấy có nền văn minh rất sớm, thời đó họ vẫn dùng Âm lịch như các nước Á Đông), năm - 430 (sau Trung Quốc 165 năm) nhà thiên văn Méton tuyên bố:” Để theo kịp năm Mặt Trời, thì 19 năm Trăng (Annnée lunaire) phải chen vào 7 tuần Trăng (Lunaison) trong những thời khoảng nhất định, nếu không thì phải dùng đến chu kỳ 76 năm = 19 x 4”.

Con số 19 năm Trăng kèm 7 tháng nhuận, người Tây phương gọi nó là số Vàng (Nombre d’Or) (1).

2) Cách đặt tháng nhuận như thế nào?

Về nhuận trong Âm lịch có liên quan 24 Tiết khí trong năm.

Mỗi tháng gồm 2 Tiết. Tiết đầu gọi là Tiết Khí (Tiết có số thứ tự lẻ), Tiết sau gọi là Trung Khí (Tiết có số thứ tự chẵn). Các Tiết này tính theo ngày tháng DL với sai số ±1 ngày:

Có điều tồn nghi ở đây, trước thời Hoài Nam Tử Lưu An (-197 đến -122, người Hoàng Tộc, nhà Bác học cổ Trung Quốc, tước phong Hoài Nam Vưong) chưa có bộ sách nào viết đủ 24 tiết, chỉ viết đến8 Tiết: Lập Xuân, Xuân Phân, Lập Hạ, Hạ Chí, Lập Thu, Thu Phân, Lập Đông, Đông Chí, không biết các nhà làm Lịch thời ấy chen 7 tháng nhuận trong 19 năm ở những tiết nào. Khi Lưu An viết bộ Hoài Nam Hồng Liệt(thường gọi là bộ Hoài Nam Tử), người ta mới thấy ở sách này ghi đủ 24 Tiết. Từ đó phép đặt Nhuận Lịchcàng có tính khoa học hơn.

Sau đây chúng ta bàn đến phép Nhuận Lịch hiện hành (Việt Nam cũng đang sử dụng phương pháp này).

a) Đặt tháng nhuận vào tháng nào, sao cho hàng năm ngày Xuân Phân ở vào tháng hai (AL); Hạ Chí ở vào tháng năm; Thu Phân ở vào tháng tám; Đông Chí Ở vào tháng mười một.

b) Sau Tiết Hạ Chí đến trước Tiết Xuân Phân không bao giờ có nhuận - nói cách khác từ tháng mười một đế tháng hai (Al) không bao giờ có Nhuận.

c) Tháng Nhuận là tháng không có Trung Khí.Đừng nói ngược rằng tháng không có Trung Khí là tháng Nhuận (vì từ năm 1875 - 2064, có nhiều hơn ba lần tháng có Tiết Khí mà không có Trung Khí, nhưng không phải là tháng Nhuận). Tháng Nhuận, Mặt Trời luôn ở trong cung Hoàng Đạo (Zodiaque). Do đó ta biết, ngày Khởi Tiết có số thứ tự lẻ (tức Tiết Khí), Mặt trời luôn ở giữa Cung; ngày Khởi tiết có số thứ tự chẵn (tức Trung Khí) Mặt trời bắt đầu đi vàoCung Hoàng Đạo. Vd: Ngày Lập Xuân, Mặt Trời ở Giữa cung Tí (Signe du Verseau), đến Tiết Võ Thuỷ Mặt Trời ra khỏi cung Tí và bắt đầu đi vào cung Hợi (Signe des Poissons). Cho nên tết Nguyên Đán là ngày Sóc cuối cùng trước khi Mặt Trời đi vào Cung Hợi. Tết Nguyên Đán luôn luôn sau 21 - 1 và trước 19 - 2 Tây Lịch mỗi năm.

(Bản đồ phối hợp giữa vòng Hoàng Đạocủa Đông Phương và vòng Zodiaquecủa Tây Phương: Từ trong ra ngoài:

- Đĩa Trắng: Thái Cực, tượng trưng vũ trụ lúc ban sơ.

- Vòng I, II: Hậu Thiên Bát Quái kèm theo Thư số.

- Vòng III: Phương hướng.

- Vòng IV: 12 tháng Âm Lịch.

- Vòng V: 12 tháng Dương lịch.

- Vòng VI: Các cung trên Cung hoàng Đạo của Tây phương.

- Vòng VII: thứ tự 24 Tiết.

- Vòng VIII: Vòng Nhị Thập Bát Tú (28 sao) và cự Xích, khởi từ Sao Giác).

4) Những chu kỳ cố định trong một “Chương” Lịch.

Người Trung Quốc dùng từ “Chương” là có ý lắm. Dạng như một bộ sách chia làm nhiều chương, mỗi chương có nhiều hạng mục; hết chương này kế tiếp đến chương khác. Chương trong lịch pháp cũng vậy. Mỗi chương gồm 19 năm Xuân Phân là 6936,6016 ngày; và 235 tuần trăng là: 6939,6883 ngày. Một chương Âm Dương lịch dài hơn 19XP là 2 giờ 04 phút 40 giây; nhưng vì sự khởi tháng Nhuận không nhất định (sau đây sẽ nói rõ) nên sự chênh lệch khoảng 2 giờ đó cũng biến mất, dù thời gian có kéo dài bao nhiêu chương.

Trong quyển Lịch Việt Nam 190 1- 2010có nêu 3 chu kỳ tháng Nhuận như sau (của tác giả Nguyễn Mậu Tùng).

a) Đặt Nhuận vào các năm thứ 3, 5, 8, 11, 13, 16, 19 của Chương.

b) Đặt Nhuận vào các năm thứ 3, 6, 8, 11, 14, 17, 19 của Chương.

c) Đặt Nhuận vào các năm thứ 2, 5, 7, 10, 13, 15, 18 của Chương.

Tác giả Nguyễn Mậu Tùng cho rằng, đặt Nhuận theo cách a) và b) là sai số quá nhiều, những 23 ngày; đặt theo cách c) thì có tiến bộ hơn.

Còn ý kiến của chúng tôi:

a’) Trong cách đặt Nhuận c) của ông Tùng có năm thứ 15 là không đúng mà phải viết là: c) 2, 5, 7, 10, 13, 16, 18 của Chương.

b’) 2 cách a) và b) cũng chỉ là một của c) đã điều chỉnh mà thôi.

c’) Cách chia và đặt “tháng Nhuận” vào năm thứ mấy của Chưong đã có nhiều sách Thiên văn cổ viết đến, nhưng cụ thể khởi đầu của một Chương là năm nào, thì chưa sách nào đề cập đến (hoặc có thể đã đề cập đến trong bộ sách lịch nào đó của Trung Quốc mà chúng tôi chưa được đọc qua).

Sau đây chúng tôi chọn năm Ất Hợi 1875 để làm Khởi Chương cho “Chu kỳ Nhuận Lịch 10 Chương”, với các năm thứ 2, 5, 7, 10, 13, 16, 18 của mỗi Chương.

Chương I: từ năm Ất Hợi 1875 đến năm Quí Tị 1893.

Chương II: từ năm Giáp Ngọ 1894 đến năm Nhâm Tý 1912.

Chương III: từ năm Quí Sửu 1914 đến năm Tân Mùi 1931.

Chương IV: từ năm Nhâm Thân 1932 đến năm Canh Dần 1950.

Chương V: từ năm Tân Mão 1951 đến năm Kỷ Dậu 1969.

Chưong VI: từ năm Canh Tuất 1970 đến năm Mậu Thìn 1988.

Chương VII: từ năm Kỷ Tỵ 1989 đến năm Đinh Hợi 2007.

Chương VIII: từ năm Mậu Tý 2008 đến năm Bính Ngọ 2026.

Chương IX: từ năm Đinh Mùi 2027 đến năm Ất Sửu 2045.

Chương X: từ năm Bính Dần 2046 đến năm Giáp Thân 2064.

Nhắc lại, tháng Nhuận là tháng không có Trung Khí. Dưới đây là sơ đồ của các năm Nhuận (*) và số trong ngoặc là tháng Nhuận.

-Qua bảng 10 Chương(190 năm) Nhuận Lịch trên đây, vị trí các năm Nhuận trong Chương không đổi. Có 7 cột, riêng cột II và cột XIII các tháng Nhuận không đổi. Hai cột V và VII chênh lệch tối đa là 2 tháng. 3 cột còn lại chênh lệch nhau 1 tháng.

* 1984 (Giáp Tý), Lịch Trung Quốc Nhuận tháng mười; ở nước ta thuộc tháng mười một, tuy rằng là tháng không có Trung Khí, nhưng nó không nằm trong Chukỳ nhuận cả hàng lẫn cột. Lịch Việt Nam nhuận tháng 2 năm Ất Sửu 1985 là đúng!

* Từ khi linh mục Adam Schall cải cách lịch Trung Quốc (Triều Khang Hi), cho đến nay không bao giờ có nhuận tháng mười một. Năm 2033 (Quí Sửu) ở Trung Quốc có nhuận tháng mười một!!! Ở nướcta có người còn đem cả Toán hộp (Một loại toán Graph… Đồ hình) của Dirichlet ra để làm vũ khí chứng minh, cố ép cho ra nhuận tháng mười một mới cam! Nhưng không đúng. Theo sự tính toán của chúng tôi,tháng bảy nhuận này (lịch Trung Quốc là tháng Tám) có Tiết khí mà không có Trung khí với Tiết Bạch Lộ 16 giờ 39 phút ngày 14 tháng 7 (7/9/2033) chuyển sang Thu phân 2 giờ 31 phút ngày 1/8(23/9/2033). Đến tháng mười năm này là tháng thiếu ( Lịch Vạn niên phổ thôngcủa tác giả Huỳnh Ngọc Chiến, và Lịch Vạnniêncủa Lê Quí Ngưu đều ghi “Tháng mười một thiếu” (vì năm 2033, theo sự tính toán của chúng tôi, năm Quí Sửu 2033 nhuận tháng bảy, nên tháng mười (Al) của chúng tôi là tháng mười một Âl củaTrung Quốc), thế mà cuối tháng có ngày 30! Trong khi đó trong bộ Lịch Vạn Niên thực dụng 1898 - 2018của hai tác giả Nguyễn Hoàng Điệp và Nguyễn Mạnh Linh,trang 600, năm 2033, tháng Nhuận để trống (vì hoài nghi, không biết nhuận tháng nào. Đây cũng là một thái độ khoa học).

5) Nếu chọn năm khởi đầu của Chương khác nhau, thì ta có các chu kỳ nhuận lịch khác nhau.

Vd: Khởi Chương là 1877, chu kỳ năm nhuận sẽ là 3, 5, 11, 14, 16, 19.

      Khởi Chương là 1876, chu kỳ năm nhuận sẽ là: 1, 4, 6, 9, 12, 15, 17.

      Khởi Chương là 1874, chu kỳ năm nhuận sẽ là: 3, 6, 8, 11, 14, 17, 19.

…………

6)Không chỉ có tháng không Trung Khí, mà còn có cả tháng không Tiết Khí (chính điều này đã gây nên “Kiến Nguyệt”). Với Chương có thứ tự của năm Nhuận 2, 5, 7, 10, 13, 16, 18 thì những năm có tháng không Tiết Khí sẽ là: 1, 3, 6, 9, 11, 17. Vì khổ bài có hạn, tác giả không trình bày hết ở đây được.

______________

(1) Trong Larouss Encyclopedique, tom 15, P. 6562 có ghi: “B. Pascal đã ứng dụng Số - Vàng (Nombre d’Or) làm ra được máy tính đầu tiên của nhân loại.

Còn trong quyển Cosmographiecủa Couderc, người ta áp dụng Số - Vàng để tính các ngày lễ của Đạo (Thiên Chúa). Quyển này có trích một bài tính của Gauss (trang 82) về phép tính ngày lễ Pâques (Phục Sinh).

(2) Sự kiện này có liên quan đến 3 định luật Thiên văn của Kepler.

Nguồn: Xưa và Nay, số 288, 7/2007, trang 19, 20, 21.

Xem Thêm

Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Ngày 25/6/2025, tại Tp. Huế, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) chủ trì, phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thành phố Huế (Liên hiệp Hội TP. Huế) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức để góp phần tích cực cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023”.
An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Tìm giải pháp thực hiện hiệu quả các dự án viện trợ không hoàn lại
Thủ tục hành chính thực hiện và quản lý các dự án viện trợ không hoàn lại hiện nay còn phức tạp; quy trình xét duyệt, giải ngân còn chậm, ảnh hưởng đến tiến độ và sự hài lòng của đối tác; năng lực quản lý hạn chế; một số đơn vị thành viên thiếu chuyên môn về giám sát tài chính, báo cáo theo chuẩn quốc tế; biến động kinh tế, chính trị toàn cầu khiến nguồn viện trợ không ổn định....
Chủ tịch Phan Xuân Dũng tiếp xúc cử tri tỉnh Khánh Hòa sau kì họp thứ 9, Quốc hội khóa XV
Ngày 9-10/7, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Khánh Hòa gồm ông Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, bà Đàng Thị Mỹ Hương, Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh và ông Nguyễn Văn Thuận đã có các buổi tiếp xúc cử tri tại xã Bác Ái Tây và xã Phước Hà sau kì họp thứ 9, Quốc hội khóa XV.
Công nghệ mới trong xử lý chất thải góp phần phát triển bền vững ngành chăn nuôi Việt Nam
Ngày 3/7, Liên hiệp Hội Việt Nam phối hợp với Liên hiệp hội tỉnh Bắc Ninh và Hội Chăn nuôi Việt Nam tổ chức Hội thảo Phổ biến một số công nghệ mới có hiệu quả trong xử lý chất thải chăn nuôi. Hội thảo thu hút sự tham dự của đông đảo người sản xuất, kinh doanh, hộ chăn nuôi và doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.