Phát hiện làng ung thư mới (tiếp)
Đủ thứ bệnh đeo đẳng
“Hãi hùng lắm các anh ạ. Chín hộ gia đình họ Đỗ chúng em ở đây nhà nào cũng có người mắc bệnh” – anh Đỗ Trọng Kiểm nói như mếu. Bố anh là ông Đỗ Minh Tân chết vì ung thư gan năm 2003. Mẹ anh đi chữa trị căn bệnh đau đầu khắp các bệnh viện lớn nhỏ nhưng cũng không có kết quả. Bản thân anh Kiểm người gầy dộc và ốm vặt như cơm bữa. “Em bị bệnh ngoài da đã ba năm nay. Lúc nào cũng luôn tay gãi như người bị ghẻ ruồi. Những lúc trở trời mụn nước nỗi khắp người”.
Người lớn sống chung với thuốc trừ sâu cả mấy chục năm như ông Tiến và đến đời thứ hai như anh Kiểm, anh Lâm bị mắc bệnh đã quá khổ rồi. Nay bóng ma bệnh tật lai vươn lưỡi hái tử thần tới các cháu nhỏ, thế hệ thứ ba. 5/9 hộ gia đình nằm trong “vùng ung thư” có trẻ nhỏ. “Viêm da là bệnh các cháu trong khu hay mắc nhất” – y sĩ Phan Kim Ninh, trạm trưởng trạm y tế xã Yên Tập, khẳng định. Vợ chồng anh Tin chị Nga có ba cháu đang đi học. Cháu gái đầu tên Thuỷ từ năm học lớp 3 (năm 2000) đã bị bệnh đau lưng. Mỗi lần cháu đi học về là hết bà đến mẹ bóp lưng cho hàng tiếng đồng hồ mới hết đau… Hai em tiếp sau Thuỷ là Bảo và Dũng bị viêm phế quản từ bé. Vào những ngày trời lạnh, cháu Dũng ho cả tuần. Uống kháng sinh liều cao mà cơn ho vẫn không dứt. Bên nhà anh Kiểm, cháu Kiên (2 tuổi) hay bị ngứa khắp người. Đi khám bệnh bác sĩ kết luận bệnh của cháu từ máu phát sinh ra.
Hai thế hệ đi kêu cứu
Hoảng loạn khi chứng kiến những người ruột thịt chết dần trong sự đau đớn tuyệt vọng vì căn bệnh ung thư quái ác, các hộ dân ở khu 2 đã làm đơn gửi lên các cấp kêu cứu. “Chúng tôi quanh năm chỉ ở trong làng nên không thể hiểu hết những di hoạ của đống thuốc trừ sâu còn sót lại. Thời tôi, các bậc cha ông còn rắc thuốc bột lên đầu con cháu để … đuổi chấy – ông Đỗ Kim Tiến (54 tuổi)bùi ngùi kể lại. Nhưng lâu dần thấy quá nhiều người chết, chúng tôi mới bàn nhau viết đơn kêu cứu”.
Lá đơn kêu cứu đầu tiên được khởi thảo vào đầu năm 2001. Nhưng rồi bà con lại trù trừ không gửi vì chưa thu thập hết những trường hợp bị mắc bệnh trong toàn khu. Mãi đến giữa năm, các hộ mới nhất trí “tiến cử” ông Đỗ Minh Tân đứng tên viết đơn gửi các cấp. Ngày 15/6/2001, ông Đỗ Minh Tân có đơn gửi lên UBND tỉnh Phú Thọ (UBND xã Yên Tập đã xác nhận) giải trình về tình trạng ô nhiễm ở khu 2 xã Yên Tập. Xin trích: “Năm 1966, trong thời gian chống Mỹ, Công ty vật tư nông nghiệp tỉnh Phú Thọ, cùng Trạm vật tư nông nghiệp huyện Sông Thao do ông Lê Công Tâm, là trạm trưởng có chuyển kho thuốc, tư liệu về sơ tán ở đây. Họ đã xây hai nhà kho đựng thuốc trừ sâu vào đất vườn, nhà ở của những hộ dân nơi đây. Đến đầu năm 1969 một số thuốc đã ngấm chảy ra ngoài bao bì, sau đó công ty cùng với trạm của huyện và UBND xã Yên Tập đã lập biên bản cho chôn số thuốc đó với số lượng quá nhiều. Đến năm 1973, hai nhà kho được di dời đi nơi khác. Khi đào giếng lấy nước ăn vẫn còn thấy mùi thuốc, những ngày thay đổi thời tiết vẫn thấy mùi thuốc trong lòng đất bốc lên. Từ khi để kho thuốc cho đến nay, dân trong làng thấy xuất hiện nhiều bệnh khác lạ mà trước đây ông cha không mắc phải. Như bệnh ung thư gan, ung thư phổi… đã có nhiều người chết trẻ do ung thư như anh Đỗ Đức Trí, 30 tuổi, mắc bệnh gan chết năm 1990; ông Đỗ Văn Hỏi 60 tuổi, ung thư phổi chết 1992; ông Đỗ Quế Phượng, 47 tuỏi, ung thư gan chết năm 1993. Còn những hộ dân hiện nay thì ung thư tràn lan và mắc đủ thứ bệnh khác, người viêm gan, người viêm phổi, u buồng trứng, bệnh tim…”.
Nguyện vọng của các hộ dân chỉ đơn giản là đề nghị với cơ quan, các cấp xem xét giải quyết, kiểm tra thực tế để có biện pháp xử lý “cho chúng tôi có nguồn nước sạch và không khí trong lành”. Ông Tiến nhớ lại: “Tính từ năm 2001 đến nay chúng tôi đã gửi hàng chục lá đơn lên các cấp kêu cứu giải quyết cho 9 hộ gia đình dòng họ Đỗ. Mỗi lần viết đơn, chúng tôi đều liệt kê danh sách các hộ gia đình bị ảnh hưởng của thuốc trừ sâu cũng như tên tuổi các bệnh nhân đã chết vì ung thư. Đơn trước gửi đi, đơn sau lại phải chỉnh sửa, bổ sung vì lại có thêm người bị phát hiện ung thư”.
Nhưng đơn cứ gửi và các hộ dân vẫn cứ chờ đợi trong tuyệt vọng. Bệnh tật ngày một năng, năm 2003 ông Đỗ Minh Tân chết vì ung thư gan. Trước lúc nhắm mắt ông vẫn kịp dặn người con trai cả là anh Đỗ Trọng Kiểm tiếp tục công việc kêu cứu cho các cháu ông sau này có một môi trường sống trong lành hơn ông cha nó. Anh Kiểm nói trong nước mắt: “Trước khi chết vì ung thư, bố tôi và những người thuộc lớp trước đã làm những lá đơn này, rồi đến đời tôi cũng nhọc nhằn tìm nguồn sống, tìm sự quan tâm của các cơ quan, nhưng đến bây giờ thì người dân vẫn còn sống trong vô vọng”…
Lá đơn kêu cứu của những người dân vô tội đã đến tay các cấp có thẩm quyền. Ngày 11/9/2002, Sở Khoa học và Môi trường Phú Thọ đã lập hẳn một đoàn kiểm tra về khu 2 xã Yên Tập và đa dóng lên hồi chuông cảnh báo về mức độ ô nhiễm môi trường khủng khiếp ở nơi đây. UBND huyện Cẩm Khê cũng đã duyệt kinh phí di dời 9 hộ dân ra khỏi vùng ô nhiễm. Nhưng đến thời điểm đoàn phóng viên Báo Khoa học và Đời sống về khu 2, người dân vẫn sống chung với ô nhiễm trong nỗi lo sợ đến tột cùng.
Nhà anh Kiểm đã bỏ tiền ra đào đến 3 cái giếng để lấy nước ăn. Nước múc lên không dùng được vì mùi thuốc sâu nồng nặc. Thương con nhỏ, anh Kiểm đã phải vào tận trong làng mua nước sạch về dùng. Gia đình anh đã di dời ngôi nhà của mình cách khu vực kho thuốc sâu 50m. Nhưng mỗi khi “trở giời” mùi thuốc sâu bốc lên nồng nặc. Lo sợ, anh lại chuyển nhà sang khu đất bên cạnh nhưng tình hình cũng chẳng sáng sủa lên là bao. Nhiều gia đình như nhà anh Đỗ Kế Tấn đã chuyển xuống cuối làng, vậy mà căn bệnh ung thư quái ác vẫn không buông tha.
Bao giờ thoát khỏi “vùng ô nhiễm”
Những lá đơn đã được gửi đi. Một đoàn kiểm tra liên ngành đã về. Biên bản kết luận đã khẳng định “toàn bộ khu vực 9 họ dân sinh sống không khí ô nhiễm nồng nặc”. Đã có kiến nghị di dời các hộ dân trong “vùng ô nhiễm”. Nhưng đến thời điểm hiện tại người dân vẫn phải “sống chung với thuốc trừ sâu”.
Lời kể của bà thủ kho
Đó là bà Nguyễn Thị Năng, nguyên thủ kho thuốc trừ sâu trong khu vực. Năm nay 65 tuổi, đang sống ở thị trấn Đông Phú - Cẩm Khê, bà Năng (thường gọi là bà “trọc”) bao năm nay vẫn bị trọc đầu, đau nhức, mắt mờ do nhiễm độc thuốc trừ sâu. Bà cho biết: Kho trong khu vực trước có chứa các loại thuốc trừ sâu sau: 666 bột, Gama bột, DT bột, Volfatoc nước, Dittotech gói, Bontinoc gói… Bà công nhận, do nhận thức còn hạn chế thời bấy giờ, công tác di chuyển tiêu huỷ được làm rất nhộm nhoạm, và hậu quả hiện nay khiến bà (dù không phải là người trực tiếp có trách nhiệm tiêu huỷ) rất đau lòng.
Mòn mỏi chờ kinh phí
Đoàn kiểm tra về khu 2 xã Yên Tập khi đó (năm 2002) gồm chánh thanh tra Sở Khoa học Công nghệ và Môi trường Phú Thọ - bà Nguyễn Thị Tỵ; phó phòng môi trường – ông Tạ Quốc Khởi, đại diện huyện Cẩm Khê và lãnh đạo xã Yên Tập. Các thành viên trong đoàn thẩm tra, xác minh thực địa tại khu 2 xã Yên Tập đã thống nhất kết luận bằng văn bản đề ngày 11/9/2002 về thực trạng tại hiện trường: “Các vỏ bao bì, thuốc trừ sâu từ năm 1966 đến nay vẫn còn tồn tại trên mặt đất. Các nền nhà kho chứa thuốc mùi nồng nặc, khó ngửi. Các giếng nước nặng mùi thuốc sâu. Cá thả xuống ao không lớn, nấu chín vẫn còn mùi thuốc sâu. Cây cối phát triển không có sâu bọ. Gia cầm, gia súc thường xuyên bị chết (nhất là lợn, trâu, bò). Toàn bộ khu vực 9 hộ không khí ô nhiễm nồng nặc, khó ngửi”. Kèm theo báo cáo này, Đảng uỷ, UBND xã Yên Tập đã kiến nghị các cấp có thẩm quyền hỗ trợ một khoản kinh phí để di chuyển 9 hộ dân đến địa điểm mới để bà con yên tâm làm ăn sinh sống.
Tuy nhiên, đến thời điểm đoàn phóng viên báo Khoa học và Đời sống về khu 2 xã Yên Tập (ngày 10/1/2006), 9 hộ dân vẫn chưa được di dời đến nơi ở mới. Nguyên do của sự chậm trễ này là không tìm đâu ra kinh phí. Sở Tài chính Vật giá tỉnh cho rằng, kinh phí di dời phải do Công ty Vật tư nông nghiệp huyện Cẩm Khê (đơn vị đã mang kho thuốc sâu về đặt tại khu 2 Yên Tập – PV) bồi thường. Nhưng trong thực tế, công ty đó đã giải thể từ lâu rồi, lấy ai ra đền bù cho dân!
Lo sợ cho tính mạng của các cháu nhỏ, nhiều gia đình đã di dời lên những khoảng đất cao hơn để tránh xa “vùng ô nhiễm” chừng nào đỡ chừng ấy. Nhưng tình hình cũng chẳng sáng sủa hơn là mấy. Cuối cùng sau rất nhiều cuộc họp, Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Cẩm Khê đã đưa ra mức hỗ trợ 2 triệu đồng/ hộ (áp dụng theo quy định hỗ trợ các gia đình đi xây dựng vùng kinh tế mới –PV). Anh Đỗ Hữu Tín buồn bã: “Chín hộ dân ở đây phần lớn là các hộ nghèo. Gạo còn không đủ ăn lấy tiền đâu mà làm nhà. Đến lúc nghe nhà nước hỗ trợ kinh phí chúng tôi mừng lắm. Nhưng mức hỗ trợ hai triệu đồng là quá ít. Chúng tôi lại phải cắn răng sống cùng thuốc sâu thôi các anh ạ”.
Bao giờ các hộ dân ra khỏi “vùng ô nhiễm”?
Sau khi báo Khoa học và Đời sống đăng loạt bài “Phát hiện làng ung thư mới” ở Yên Tập, UBND huyện Cẩm Khê đã cử một đoàn cán bộ về khảo sát tìm biện pháp giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường cho các hộ dân ở khu 2 Yên Tập. Ngày 13/1/2006, UBND huyện Cẩm Khê đã tổ chức một đoàn cán bộ xuống vùng độc hại, thăm hỏi tặng quà từng gia đình, lắng nghe nguyện vọng của bà con để sớm di dời các hộ gia đình ra khỏi “vùng ô nhiễm”. Trước mắt, huyện yêu cầu bà con khắc phục khó khăn, lấy nước ở khu khác về dùng. Rau quả, cá mú bị nhiễm thuốc sâu thì nên đem tiêu huỷ.
Ông Hoàng Lệ Xuân, chủ tịch UBND xã Yên Tập cho biết lãnh đạo xã đã tìm được quỹ đất cho 9 hộ dân khu 2 di dời đến nơi ở mới. Tuy nhiên, cần có cơ chế ưu tiên để bà con di chuyển mà không phải đóng tiền lệ phí sử dụng đất. Xã cũng đã tính toán chỉ cần khoảng 20 triệu đồng để di chuyển được một hộ dân ra khỏi vùng độc hại.
Nguồn: Khoa học và Đời sống ngày 16 và 20/1/2006








