Phân tích thống kê chứng minh lý thuyết về việc đại dương ấm lên gây ra bão lớn hơn
Nhà nghiên cứu về khí hậu, Judith Curry và các đồng nghiệp của bà tại Viện Công nghệ Georgia quan sát các số liệu ghi chép về những cơn bão giai đoạn từ năm 1970 đến năm 2004 trên tất cả các vùng thềm đại dương trên thế giới. Họ thu thập được mẫu gồm tổng cộng 210 mùa bão ở 6 vùng biển. Họ đưa các dữ liệu vào một trắc nghiệm toán được rút ra từ lý thuyết thông tin - được gọi là thông tin chung dùng để đo lượng thông tin mà 2 biến số có chung. Nếu chúng không hoàn toàn trùng nhau thì kết quả đo đạc bằng không.
Các nhà nghiên cứu quan sát nhiệt độ bề mặt của biển, độ ẩm riêng, luồng gió và sự thay đổi của gió theo kinh tuyến để xem xét những biến số này có thể có những điểm nào chung khi số lượng cơn bão mạnh tăng lên trên toàn thế giới. Theo phân tích mới đây trên ấn bản điện tử của Tạp chí Science, xu hướng này chỉ phụ thuộc vào nhiệt độ của bề mặt biển. Curry phát biểu: “Nếu bạn xem xét cường độ của một cơn bão hay thậm chí là những thống kê về cường độ của một mùa bão nào đó, các yếu tố như luồng gió có thể đóng một vai trò quan trọng. Tuy nhiên, không có một xu hướng toàn cầu nào về luồng gió hay về các yếu tố khác trong suốt 35 năm qua”.
Mối liên quan giữa sự tăng nhiệt độ của đại dương và sự biến đổi khí hậu toàn cầu vẫn còn chưa được sáng tỏ do sự trùng lặp giữa các chu kỳ tự nhiên và hiện tượng Trái đất ấm lên. Curry nói: “Tuy nhiên nếu bạn ủng hộ lập luận rằng hiện tượng Trái đất ấm lên gây ra sự tăng nhiệt độ của mặt biển – và mọi người dường như đều ủng hộ lập luận đó – thì chỉ cần một bước nhỏ là có thể liên hệ rằng hiện tượng Trái đất ấm lên gây ra nhiều bão hơn”. Hiện tại, nhóm nghiên cứu của bà sẽ tập trung phân tích các cơ chế hoạt động tại Bắc Đại Tây Dương bằng cách tách biệt giữa chu kỳ tự nhiên 75 năm và sự thay đổi khí hậu. Bà nói thêm: “Cao trào cuối cùng xảy ra vào năm 1950 và đợt tiếp theo sẽ là năm 2025. Chúng ta đang ở giữa phần đi lên của nửa chu kỳ và chúng ta đã phải chịu số lượng bão nhiều gấp rưỡi. Đối với tôi, đây là một vấn đề hấp dẫn cần phải nghiên cứu”.
Nguồn: Scientific American, 3/2006







