- Trẻ dưới 2 tuổi: từ 50 đến 100 ml (khoảng ¼ đến ½ tách uống trà); có thể cho uống đến 500 ml một ngày. - Trẻ từ 2 đến 9 tuổi: từ 100 – 200 ml, một ngày có thể cho uống đến 1 lít.
- Trẻ trên 10 tuổi và người lớn: cho uống theo nhu cầu, uống cho đến khi cảm thất hết khát, co thể đến 2 lít một ngày.
Khi có dấu hiệu mất nước số lượng cho uống trong vòng 4 giờ đầu như sau
- Trẻ dưới 2 tháng tuổi: từ 200 – 400 ml.
- Trẻ từ 4 đến 11 tháng tuổi: từ 400 – 600 ml.
- Trẻ từ 12 đến 23 tháng tuổi: từ 600 – 800 ml.
- Trẻ từ 2 đến 4 tuổi: từ 800 – 1200 ml.
- Trẻ từ 5 đến 14 tuổi: từ 1.200 – 2.200 ml.
- Trẻ từ 15 tuổi: từ 2.200 – 4.000 ml.
Nếu mất nước nặng,phải truyền dịch bằng đường tĩnh mạch, số lượng 200 ml/kg/24 giờ đầu.
Trong một vụ dịch tả bộc phát, có 20% trường hợp mất nước nặng cần truyền dịch, 80% trường hợp nhẹ chỉ cần bù nước bằng đường uống. Vì vậy, bù dịch bằng đường uống rất cần thiết trong các vụ dịch tiêu chảy cấp.
Bệnh tả dễ bộc phát và lan rộng tại những vùng dân cư có mức sinh hoạt thấp, điều kiện vệ sinh kém, môi trường sống bị ô nhiễm. Tại vùng bệnh tả lưu hành, phần lớn những người trưởng thành đã mắc bệnh trước đó có miễn dịch khi xảy ra dịch bệnh; nên trẻ em bị mắc bệnh nhiều, chỉ trừ trẻ còn bú mẹ. Ở những vùng không có bệnh tả, khi dịch xảy ra mọi lứa tuổi đều mắc bệnh ngang nhau. Vi khuẩn tả gây bệnh phải vượt qua môi trường axit của dạ dày, nếu độ axit ở những người uống thuốc giảm tiết dịch vị hay cắt dạ dày sẽ dễ mắc bệnh hơn. Nếu ăn phải lúc bụng trống, axit trong dịch vị sẽ diệt vi khuẩn, nếu nuốt phải vi khuẩn lúc bụng có thức ăn sẽ dễ mắc bệnh tả hơn.
Trước một trường hợp tiêu chảy cấp, cần xét nghiệm tìm vi khuẩn tả bằng cách:
Soi phândưới kính hiển vi nền đen, thấy vi khuẩn tả di động nhanh như tên bắn, nếu cho tiếp xúc kháng huyết thanh chuyên biệt vi khuẩn bị bất động. Phương pháp này giúp chẩn đoán nhanh.
Cấy phântừ phân tươi hay que phết trực tràng để xác định loại vi khuẩn gây bệnh. Có kết quả sau 24 giờ.
Khi xác định tiêu chảy cấp do tả, cần cho bệnh nhân uống kháng sinh diệt vi khuẩn,với mục đích: rút ngắn thời gian tiêu chảy và giảm số lượng phân tiêu chảy; làm sạch vi khuẩn trong phân để tránh lây lan cho cộng đồng. Người lớn: Fluroquinolon: Cipro, Ofloxacin.
Doxycyclin: 300 mg liều duy nhất
Tetracyclin: 12,5 mg/kg x 4 lần ngày x 3 ngày.
Trẻ em: Erythromycin: 40 mg/kg/ngày x 3 ngày.
Azythromycin: 10 mg/kg/ngày x 3 ngày.
Phụ nữ có thai: Azythromycin
Furazoldon: 1,25 mg/kg/ngày x 4 lần/ ngày x 3 ngày.
Vắc xin phòng tả
Gồm nhiều loại
- Vắc xin dạng tiêmkhông được sử dụng từ năm 1999.
- Vắc xin dạng uốngcó từ đầu thập niên 1990, được điều chế từ sự tinh lọc từng thành phần của Vibrio cholerae, có ba loại:
+ WC/rBS: vi khuẩn tả nhóm huyết thanh 01 chết và tiểu phần độc tố B; uống hai lần: cách nhau 10 đến 14 ngày. Miễn dịch có được sau 1 tuần. Hiệu lực 85 – 90%. Thời gian miễn dịch là 6 tháng.
+ WC/rBS biến đổi: do Việt Nam sản xuất, thành phần tương tự vắc xin WC/rBS nhưng không có tiểu phần độc tố B. Uống hai lần, cách nhau 1 – 2 tuần. Miễn dịch có được sau 1 tuần. Hiệu lực 66%. Thời gian miễn dịch là 6 tháng. Có thêm vi khuẩn tả O139.
+ CVD 103 –HgR: vi khuẩn tả nhóm huyết thanh O 1, còn sống, giảm độc lực, chủng CVD 103 –HgR, uống 1 lần, miễn dịch có được sau một tuần. Hiệu lực 95%. Thời gian miễn dịch là 6 tháng.
Nhìn chung các loại vắc xin tả dạng uống rất an toàn, không tai biến, dễ sử dụng; nhưng thời gian miễn dịch ngắn, giá thành vắc xin tả cao, nên chỉ sử dụng ở vùng nguy cơ sẽ bộc phát dịch và đối tượng nguy cơ trong vùng dịch tản phát.
Uống vắc xin tả nhưng cũng phải thực hiện các biện pháp phòng tránh bệnh tả: giữ vệ sinh ăn uống, rửa tay thường xuyên, vật dụng đựng thức ăn phải rửa sạch và phơi khô.
Giữ nhà vệ sinh luôn luôn sạch
Vi khuẩn tả có trong phân và chất nôn của người bệnh, vì thế cần được xử lý triệt để bằng cách đổ dung dịch chloramin B 10% vào theo tỷ lệ 1/1 (tức là 1 lít phân thì dùng 1 lít dung dịch), để sau 30 phút mới đồ vào bồn cầu. Những người chăm sóc hay tiếp xúc với người bệnh, nếu bị dính chất thải, chất nôn của người bệnh thì phải rửa sạch bằng cồn hoặc chloramin B, sau đó đến cơ quan y tế để uống thuốc dự phòng.
Theo Tổ chức Y tế thế giới, có đến 75% số người mang vi khuẩn tả không có biểu hiện gì, có nghĩa là họ sẽ phát tán mầm bệnh ra cộng đồng mà không ai biết để phòng tránh. Vì thế, bao giờ cũng phải đi tiêu trong nhà vệ sinh, mỗi gia đình phải có nhà tiêu hợp vệ sinh, không làm nhà tiêu trên hồ ao sông rạch. Giữ nhà tiêu cho sạch, dùng nhiều nước và xà bông hay dung dịch tẩy rửa, khử trùng để làm vệ sinh sau mỗi khi người bệnh đi tiêu, phân trẻ em phải đổ vào bồn cầu (không đổ ra môi trường bên ngoài) và dội nước cho sạch.